Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Mỗi ngày một mới: Hoa xuân trong đời

02/01/202316:53:00(Xem: 2325)
Tản mạn

hoa dao


Sáng hôm chủ nhật vừa qua dậy muộn, mặc dù tối qua tôi không dự một bữa tiệc Giáng Sinh nào, ở đâu. Chẳng qua là mấy tuần nay thời tiết vào đông luôn trở lạnh, và mưa đã bắt đầu tới khá thường, tôi thêm lười ra khỏi nhà. Ngồi thảnh thơi ngoài hiên, tình cờ nhìn thấy trên bàn nước một cuốn lịch, tò mò cầm lên xem: Hóa ra đây là tấm lịch bìa mỏng mà cơ sở thương mại quanh vùng gửi biếu qua bưu điện tới từ mấy ngày trước. Giở ra tờ đầu, tôi mới chợt nhớ rằng năm nay Tết Ta chỉ cách Tết Tây chưa đầy tháng. Và tôi nhìn thấy bức ảnh mấy đóa Đào nở giữa nhiều nụ chúm chím khác trên cành lá.

Chưa đầy một tháng nữa, xuân Quý Mão sẽ đến. Đến với đất trời, đến với bất cứ nơi nào trên trái đất này, đến với cá nhân tôi đang ngồi đây. Tự nhiên những hình ảnh lẫn chữ nghĩa về hoa xuân trong đời mình lần lượt thong thả hiển hiện đến...


Đầu tiên như ở bài Mưa Xuân đã đăng trong cuốn Kỷ Yếu Vĩnh Nghiêm năm 2001, có mấy câu thơ tôi viết trong thời đi tù ở Miền Bắc Việt Nam, xin trích ra đây chia sẻ với quí vị:

Mưa xuân hay sương mù cành lê
đất Bắc giờ đây đâu là quê
chỉ còn toàn tù và lũng núi
miền Nam xa hút mất nẻo về

(1977)

Mưa xu
ân hay sương trắng rừng mai
để tang lịch sử thế kỷ d
ài
Cần vương, văn thân rồi kháng chiến
Kh
ông lẽ đời ta tang chế hoài?

(1978, ở trại tù Hoàng Bồ, Quảng Ninh)


Nhưng bao nhiêu nhọc nhằn dằn vặt từ thể xác đến tâm thần ấy vẫn không sao cướp đi hết được sức sống muốn vươn lên trong đáy lòng, tôi hồi ấy đã hạ bút viết tiếp:

 

Mai kia hoa cải vàng hơn
cho m
ình bớt lạnh bôn chôn bên trời

(1980, ở trại tù Yên Định, Thanh Hóa)

Còn trong bài Xuân Về cách đây trên hai chục năm, tôi có liệt kê một loạt mấy bài thơ của nhà sư Huyền Quang (1254-1334), tổ thứ ba của phái Trúc Lâm Việt Nam (Nguyên tác Việt-Hán của bốn bài thơ Tứ Tuyệt được trích ra từ những trang 556, 559, 569, 571 trong cuốn “Tam Tổ Trúc Lâm- Giảng Giải” của Hòa thượng Thích Thanh Từ, Thiền viện Thường Chiếu in vào năm 1997 (Phật Lịch 2541). Trong ấy có bài như:


Vương thân vương thế dĩ đô vương,
T
ọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tu
ế vãn sơn trung vô lịch nhật,
C
úc hoa khai xứ  tức trùng dương.

Tôi diễn dịch là:

Mất tăm mất tích đã lâu
b
ồ đoàn ngồi mãi lạnh nhầu khắp nơi
cuối năm trong n
úi quên ngày
th
ấy hoa cúc nở biết ngay xuân v

 

Riêng về thứ hoa đào ngày Tết thì tôi nhớ ngay tới bài:

Đề Tích Sở Kiến Xứ (*)
Khứ niên kim nhật thử môn trung,
Nhân di
ện đào hoa tương ánh hồng.
Nh
ân diện bất tri hà xứ khứ,
Đ
ào hoa y cựu tiếu đông phong (**)
Thôi Hộ (772-846)

(*)  Ghi lại những điều đã thấy năm xưa.


(**) Có bản đề là “xuân phong”. Tuy nhiên, đông phong và xuân phong đều mang ý nghĩa là cơn gió của mùa xuân).


Website http://thohoangnguyenchuong.weebly.com/th417-d7883ch-ch7919-haacuten/-tch-s-kin-x có ghi đại khái là:


Thôi H
ộ (崔護) tự là Ân Công (殷功), người ở Bác Lăng, đất nước Trung Hoa. Ông sống vào khoảng niên đại Trung Đường (Đường Đức Tông). Đây là một trong những áng thơ tình bất hủ của Thôi Hộ, được người xưa truyền bá rng rãi cho đến tận ngày nay.

Giới thiệu sự tích bài thơ:

Theo giai thoại, nhân một lần trong dịp tiết Thanh minh, Thôi Hộ dạo chơi phía nam kinh đô Trường An. Chàng trai thấy có một vườn đào đang nở hoa rất đẹp, chàng đến gõ cổng nhà ấy xin nước uống. Người ra mở cổng là một thiếu nữ xinh đẹp. Màu hồng của hoa đào và màu hồng của khuôn mặt giai nhân đã làm chàng trai sửng sốt. Uống nước xong, chàng cảm ơn  ra đi (mà trong lòng luôn) mang theo hình bóng ấy.

Tiết Thanh minh năm sau, trở lại Đào hoa trang chàng cũng gõ cửa xin nước uống nhưng (chẳng còn được gặp lại thiếu nữ kia, mà hoa đào thì vẫn nở). Không nén được cảm xúc, chàng đã đề bài thơ lên cổng rồi ra đi...


Bản phiên dịch ra Việt ngữ của bài thơ này thì đã có không biết là bao nhiêu tài danh thực hiện, như của Tản Đà, của Trần Trọng Kim... Xin phép tôi không tiện chép lại ra đây.


Mấy năm cuối thập niên 1960, đang đi dạy ở mấy trường trung học tư thục ở Sàigòn mà trong đời sống luôn cảm thấy bức bách trước thời cuộc lúc bấy giờ, tự cho phép mình đắm chìm vào giữa không khí Thơ Đường, như một cách trốn tránh thực tại, tôi đã liên tục diễn dịch độ vài trăm bài thơ của một số tác giả suốt từ các triều đại đời Tùy-Đường cho đến nhà Thanh bên Trung Hoa. Trong ấy có phần dịch bài thơ này như sau:


Thơ đề
H
ôm nay năm ngoái cổng này
hoa đào cùng với mặt người hồng tươi
Người xưa nay đ
ã đâu rồi
hoa đ
ào vẫn mởn chào mời gió xuân.

Nhưng phải công nhận rằng từ ấy cho đến tận bây giờ, cá nhân tôi vẫn nghiệm ra thấy chưa có một nhà thơ Việt nào diễn dịch hay, lột tả được trọn ý của tác giả Thôi Hộ một cách văn hoa hơn cả mà lại chỉ cần có một cặp lục bát như ở Truyện Kiều của Nguyễn Du (1766-1820):


Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

(Câu thứ 2747 & 2748)

Thế rồi đến độ trên hai chục năm nay, tôi vẫn còn nhớ bài thơ xuân năm nào mình đã nhẹ nhàng một cách tình cờ viết ra tâm tư của chính cá nhân mình khi ngồi ngoài hiên nhà như sau:

Mưa xuân sáng bậc thềm
c
ùng chim, lan, trúc huyền
trong trẻo tr
àn sinh khí
và mình thanh khiết thêm.

Phạm Quốc Bảo

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.