* Trận Quảng Trị tháng 4/1972:
Như đã trình bày, sau khi căn cứ Caroll do trung đoàn 56 BB phòng ngự đã thất thủ vào ngày 2 tháng 4/1972 và lực lượng phòng ngự căn cứ hỏa lực Mai Lộc của lữ đoàn 147 TQLC triệt thoái vì áp lực nặng của CQ vào tối cùng ngày, CQ đã tấn công cường tập căn cứ Phượng Hoàng từ ngày 9 đến ngày 11/4/1972 nhưng đã bị thất bại (chi tiết về trận đánh này đã được trình bày trong bài viết về lữ đoàn 258TQLC). Từ ngày 12/4/1972 đến ngày 26/4/1972, CQ gia tăng áp lực và mở nhiều cuộc tấn công vào tuyến phòng ngự của trung đoàn 2, trung đoàn 57 thuộc Sư đoàn 3 BB và hai liên đoàn 4 và 5 BĐQ.
Ngày 27 tháng 4/1972, tuyến phòng thủ của lực lượng bộ chiến VNCH tại mặt trận đã phải thu hẹp lại. Trung đoàn 57BB triệt thoái về Quảng Trị, trung đoàn 2 BB tái phối trí lực lượng để chận địch ở Tây Nam Ái Tử. Ngày 28 tháng 4/1972, CQ áp lực nặng lên hai liên đoàn 4 và 5 BĐQ tại Đông Hà, khiến lực lượng BĐQ phải lui quân về Ái Tử phòng thủ mặt Đông. Trước những diễn biến nguy kịch của tình hình chiến trường, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh-bản doanh đặt tại Cổ Thành- đã cho củng cố hệ thống phòng ngự vòng đai Quảng Trị để chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công cường tập của đối phương.
* Những ngày cuối tháng 4/1972 tại bộ Tư lệnh SĐ 3 BB ở Cổ Thành
Vào những ngày cuối tháng 4/1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh đã hoạt động 24/24 giờ để kịp thời điều động các đơn vị ứng phó với tình hình. Ngoài tư lệnh Sư đoàn là tướng Vũ Văn Giai và đại tá Ngô Văn Chung-tư lệnh phó- luôn theo sát diễn biến trận địa, từ các trưởng phòng, sĩ quan tham mưu cho đến anh em hạ sĩ quan, binh sĩ đại đội Tổng hành dinh tất cả đều ở trong tình trạng ứng chiến thường trực. Giữa lúc trận chiến diễn ra khốc liệt thì một sự việc đã xảy ra ảnh hưởng đến tinh thần quân sĩ: Do vô ý, tài xế một quân xa Hoa Kỳ đã húc xe làm sập trụ cột cờ ở trong doanh trại Đinh Công Tráng (Cổ Thành). Câu chuyện này đã được ghi lại trong loạt bài ký sự phổ biến vào năm 1972 của trung tá Nguyễn Thượng Thọ, (bút hiệu Lê Huy Linh Vũ, tác giả truyện phim Nguyện Cầu, ông đã mất tại Sài Gòn sau khi ở trại tù CS về). Lúc bấy giờ trung tá Thọ là phụ tá Cục trưởng Tâm Lý Chiến đặc trách về Truyền Hình Điện Ảnh, ông đã hướng dẫn một toán phóng viên quân đội từ Sài Gòn đến bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB để thực hiện cuốn phim chiến sự về mặt trận Quảng Trị. Sau đây là ghi nhận của tác giả Lê Huy Linh Vũ về sự việc này:
Một tiếng động mạnh rơi loảng xoảng, một người nào đó la to: Chết cha! Cột cờ đổ rồi. Tôi vùng dậy, chụp lấy cái máy ảnh, chạy ra ra sân cờ. Cái cột cờ hiên ngang với lá cờ phất phới theo gió như muốn thách đố với bất cứ ai và bất cứ cái gì, niềm hãnh diện của người lính Sư đoàn 3 Bộ binh, chỉ còn là một đống sắt vụn. Mấy anh cố vấn Mỹ đứng gần một chiếc căm nhông nói năng chỉ chỏ. Cái gì mà kỳ vậy" Chính họ đã làm ngã cột cờ. Dù vô ý chứ không phải cố ý, họ cũng đã gieo vào lòng những chiến sĩ Quảng Trị có mặt tại đó một nỗi hoang mang vô tận. Cột cờ tượng trưng cho một cái gì thiêng liêng. Cột cờ ngã là điềm rất xấu. Cả bộ Tư lệnh nhốn nháo. Nhiều người nóng mặt muốn bước ra dần cho mấy anh Mỹ một trận. Vài anh lính hung hăng bước đến gây sự. Mấy anh Mỹ hình như cũng đoán biết sự bất bình của ta nên rủ nhau rút êm về phía hầm trú ẩn dành riêng cho họ.
Tướng Giai đã có mặt ngay. Ông điềm tỉnh trấn anh em: Không sao! Cột cờ này nhô lên ngay giữa trung tâm bộ Tư lệnh là điểm chuẩn cho địch điều chỉnh pháo kích. Ngã đi là may, địch sẽ không còn điểm chuẩn nào khác để canh súng vào bộ Tư lệnh. Thôi tất cả giải tán và tuyệt đối không được bàn tàn gì nữa.
Dù tướng Giai tỏ ra không quan tâm đến vụ cột cờ gãy và các sĩ quan cao cấp trong bộ Tổng tham mưu trấn an binh sĩ bằng đủ mọi cách nhưng lòng người vẫn xao xuyến. Vì tập quán, vì mê tín dị đoan, ai ai cũng đinh ninh đó là điềm xấu.
* Lời tướng Giai về cuộc chiến Quảng Trị
Cũng trong thời gian công tác tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB, nhà văn Lê Huy Linh Vũ đã có cuộc phỏng vấn tướng Vũ Văn Giai, ông được vị tư lệnh Sư đoàn 3 thố lộ một số chi tiết về tình hình trận liệt với nội dung được ghi nhận như sau:
Tôi (Lê Huy Linh Vũ) nhớ đến vụ cột cờ gãy khi chiều và mơ hồ có linh cảm những lời tướng Giai sắp thố lộ với tôi có thể là lời nói cuối cùng của một vị tướng. Tôi mở to mắt, quan sát từng nét mặt của ông và chuẩn bị nghe thật kỹ những lời ông nói, tay ghi chép thật nhanh cho kịp.
Tướng Giai bắt đầu phân tích và so sánh tình hình ta với địch. Ông cho biết qua tình báo và khẩu cung tù binh, CQ vừa tung thêm vào chiến trường Sư đoàn 325 từ bên kia vĩ tuyến 17 mới xâm nhập qua bốn năm hôm nay thôi. Sự có mặt của Sư đoàn 325 CSBV nâng tổng số địch hiện diện trong vùng Quảng Trị và Đông Hà lên đến 4 sư đoàn. BB thì có các sư đoàn 304, 308 và 325. Ngoài ra còn có hai trung đoàn pháo và 1 trung đoàn chiến xa, chưa kể du kích, dân công.
Đối diện với 4 sư đoàn địch, ta chỉ có 2 sư đoàn. Gọi là 2 sư đoàn nhưng thật ra chỉ có 1 sư đoàn chính thức, còn lại là các binh đoàn thuộc đủ mọi binh chủng: TQLC, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Địa phương quân, Nghĩa quân, tập đoàn quân này tuy đông nhưng rời rạc, không có sự thống nhất chỉ huy, khó điều động. Về sư đoàn chính thức là Sư đoàn 3 BB mà ông hãnh diện chỉ huy từ hơn 6 tháng qua (thành lập ngày 1 tháng 10/1971). Tuy quân số và trang bị chưa đầy đủ, huấn luyện chưa xong, nhưng đã một thân một mình lúc đầu trong khi chờ đợi các đơn vị bạn đến tiếp cứu. Chận được địch tại phòng tuyến Đông Hà khi trận chiến xảy ra đó là công của Sư đoàn 3 BB vì mãi đến 4, 5 ngày sau BĐQ và TQLC mới được vận chuyển đến nơi. Sau một tháng trời chiến đấu, sư đoàn hao hụt hết 1 trung đoàn phải đưa về căn cứ Nancy (gần Mỹ Chánh) dưỡng quân và bổ sung quân số. Đó là trung đoàn 56 BB của nguyên trung tá Phạm Văn Đính đã bị địch bắt sống và hiện do trung tá Vĩnh Giác xử lý thường vụ trung đoàn trưởng. Phần còn lại của trung đoàn, khoảng trên 1 trung đoàn, được rải dọc theo bờ nam sông Đông Hà, hiện giờ là tuyến đang giáp địch.
Điều động phòng thủ tuyến Đông Hà có một bộ Tham mưu đặt tại căn cứ Ái Tử. Ông chỉ giữ lại 1 tiểu đoàn để bảo vệ bộ Tư lệnh Sư đoàn đóng ở Quảng Trị. Đó là tiểu đoàn 2 đang giữ cầu Quảng Trị (bắc ngang sông Thạch Hãn) và rải theo bờ Nam sông này.
Lực lượng trung ương đến tăng cường thì được phân phối: lữ đoàn TQLC phòng thủ khu vực Tây Bắc của chiến trường từ bờ sông Đông Hà đến bờ Tây Bắc sông Thạch Hãn, 3 liên đoàn Biệt động quân giữ mặt Tây với La Vang là địa điểm trọng yếu, rút về cố thủ nếu địch mạnh ta yếu và dùng bàn đạp dồn địch trở lên núi ra tới biên giới Việt Lào nếu ta mạnh địch yếu. Địa phương quân có Thiết giáp tăng cường được giao phó trọng trách bảo vệ Quốc lộ 1, con đường tiếp liệu chính nối liền với hậu tuyến là Huế. Quyền điều động Địa phương quân nằm trong tay đại tá Phan Bá Hòa, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Trị.
Sau khi đề cập sự phối trí lực lượng, tướng Giai giải thích cho biết quan niệm chiến thuật mới của ông. Theo vị tư lệnh này, địch đánh từng giai đoạn một: giai đoạn thứ nhất, sư đoàn 304 và 308 vượt sông Bến Hải chiếm đến Đông Hà thì hết nhiệm vụ, ngừng lại nghỉ ngơi và nhường chỗ cho sư đoàn 325 thực hiện giai đoạn 2 tiến chiếm Quảng Trị. Nếu chiếm được Quảng Trị, sư đoàn 325 sẽ dừng lại nhường cho một đơn vị khác vượt lên tiến đánh Huế, đó là giai đoạn 3. Mỗi giai đoạn, địch luôn luôn dùng đơn vị mới chưa xáp trận tinh thần chưa bị lung lạc nhờ vậy tiến quân rất nhanh và đánh rất mạnh.
Để chận địch, ta lại luôn luôn dùng đơn vị cũ. Carroll, Gio Linh, A2, A1, C2... thì cũng Sư đoàn 3. Vỡ phòng tuyến thứ nhất, rút về lập phòng tuyến thứ nhì dọc theo sông Đông Hà thì cũng Sư đoàn 3 Bộ binh BB. Áp lực địch quá mạnh, phải bỏ Đông Hà, tập trung về Ái Tử lập phòng tuyến bảo vệ Quảng Trị thì lại cũng Sư đoàn 3BB nữa. Binh sĩ mệt mỏi, quân số hao hụt, đạn dược không được tiếp liệu kịp, di tản thương binh bị đình trệ, đó là những yếu tố bất lợi cho ta. Muốn chận địch ta nên thiết lập nhiều phòng tuyến, mỗi phòng tuyến do một đại đơn vị phụ trách. Vỡ phòng tuyến thứ nhất, đại đơn vị thứ nhất rút về qua khỏi tuyến thứ hai lập tuyến thứ ba. Địch tiến quân đến tuyến 2 đụng đơn vị mới của ta, sức lực tương đồng, cuộc tiến quân của địch chậm lợi, ta có thì giờ hoàn hảo hóa công sự bố phòng ở tuyến 3 để chờ địch.
Sau khi hỏi tôi đã ghi chép kỹ chưa và nghe tôi đọc lại đầy đủ gần như một cái máy ghi âm những lời ông nói, tôi chào tướng Giai ra về. Trở về phòng, tôi suy nghĩ về những lời nói của tướng Giai, số phận của thành phố Quảng Trị đã được định đoạt, chỉ còn vấn đề thời gian, tối nay, tối mai hay tối mốt. Địch sẽ vây chặt thành phố này. Tướng Giai sẽ tử thủ tại đây như tướng Hưng đã tử thủ tại An Lộc, liệu ta có tiếp viện kịp thời không, và bao lâu mới giải tỏa được vòng vây của địch. (V)
Kỳ sau: Trận chiến ở bờ Nam sông Thạch Hãn cuối tháng 4/1972.
Như đã trình bày, sau khi căn cứ Caroll do trung đoàn 56 BB phòng ngự đã thất thủ vào ngày 2 tháng 4/1972 và lực lượng phòng ngự căn cứ hỏa lực Mai Lộc của lữ đoàn 147 TQLC triệt thoái vì áp lực nặng của CQ vào tối cùng ngày, CQ đã tấn công cường tập căn cứ Phượng Hoàng từ ngày 9 đến ngày 11/4/1972 nhưng đã bị thất bại (chi tiết về trận đánh này đã được trình bày trong bài viết về lữ đoàn 258TQLC). Từ ngày 12/4/1972 đến ngày 26/4/1972, CQ gia tăng áp lực và mở nhiều cuộc tấn công vào tuyến phòng ngự của trung đoàn 2, trung đoàn 57 thuộc Sư đoàn 3 BB và hai liên đoàn 4 và 5 BĐQ.
Ngày 27 tháng 4/1972, tuyến phòng thủ của lực lượng bộ chiến VNCH tại mặt trận đã phải thu hẹp lại. Trung đoàn 57BB triệt thoái về Quảng Trị, trung đoàn 2 BB tái phối trí lực lượng để chận địch ở Tây Nam Ái Tử. Ngày 28 tháng 4/1972, CQ áp lực nặng lên hai liên đoàn 4 và 5 BĐQ tại Đông Hà, khiến lực lượng BĐQ phải lui quân về Ái Tử phòng thủ mặt Đông. Trước những diễn biến nguy kịch của tình hình chiến trường, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh-bản doanh đặt tại Cổ Thành- đã cho củng cố hệ thống phòng ngự vòng đai Quảng Trị để chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công cường tập của đối phương.
* Những ngày cuối tháng 4/1972 tại bộ Tư lệnh SĐ 3 BB ở Cổ Thành
Vào những ngày cuối tháng 4/1972, bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh đã hoạt động 24/24 giờ để kịp thời điều động các đơn vị ứng phó với tình hình. Ngoài tư lệnh Sư đoàn là tướng Vũ Văn Giai và đại tá Ngô Văn Chung-tư lệnh phó- luôn theo sát diễn biến trận địa, từ các trưởng phòng, sĩ quan tham mưu cho đến anh em hạ sĩ quan, binh sĩ đại đội Tổng hành dinh tất cả đều ở trong tình trạng ứng chiến thường trực. Giữa lúc trận chiến diễn ra khốc liệt thì một sự việc đã xảy ra ảnh hưởng đến tinh thần quân sĩ: Do vô ý, tài xế một quân xa Hoa Kỳ đã húc xe làm sập trụ cột cờ ở trong doanh trại Đinh Công Tráng (Cổ Thành). Câu chuyện này đã được ghi lại trong loạt bài ký sự phổ biến vào năm 1972 của trung tá Nguyễn Thượng Thọ, (bút hiệu Lê Huy Linh Vũ, tác giả truyện phim Nguyện Cầu, ông đã mất tại Sài Gòn sau khi ở trại tù CS về). Lúc bấy giờ trung tá Thọ là phụ tá Cục trưởng Tâm Lý Chiến đặc trách về Truyền Hình Điện Ảnh, ông đã hướng dẫn một toán phóng viên quân đội từ Sài Gòn đến bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB để thực hiện cuốn phim chiến sự về mặt trận Quảng Trị. Sau đây là ghi nhận của tác giả Lê Huy Linh Vũ về sự việc này:
Một tiếng động mạnh rơi loảng xoảng, một người nào đó la to: Chết cha! Cột cờ đổ rồi. Tôi vùng dậy, chụp lấy cái máy ảnh, chạy ra ra sân cờ. Cái cột cờ hiên ngang với lá cờ phất phới theo gió như muốn thách đố với bất cứ ai và bất cứ cái gì, niềm hãnh diện của người lính Sư đoàn 3 Bộ binh, chỉ còn là một đống sắt vụn. Mấy anh cố vấn Mỹ đứng gần một chiếc căm nhông nói năng chỉ chỏ. Cái gì mà kỳ vậy" Chính họ đã làm ngã cột cờ. Dù vô ý chứ không phải cố ý, họ cũng đã gieo vào lòng những chiến sĩ Quảng Trị có mặt tại đó một nỗi hoang mang vô tận. Cột cờ tượng trưng cho một cái gì thiêng liêng. Cột cờ ngã là điềm rất xấu. Cả bộ Tư lệnh nhốn nháo. Nhiều người nóng mặt muốn bước ra dần cho mấy anh Mỹ một trận. Vài anh lính hung hăng bước đến gây sự. Mấy anh Mỹ hình như cũng đoán biết sự bất bình của ta nên rủ nhau rút êm về phía hầm trú ẩn dành riêng cho họ.
Tướng Giai đã có mặt ngay. Ông điềm tỉnh trấn anh em: Không sao! Cột cờ này nhô lên ngay giữa trung tâm bộ Tư lệnh là điểm chuẩn cho địch điều chỉnh pháo kích. Ngã đi là may, địch sẽ không còn điểm chuẩn nào khác để canh súng vào bộ Tư lệnh. Thôi tất cả giải tán và tuyệt đối không được bàn tàn gì nữa.
Dù tướng Giai tỏ ra không quan tâm đến vụ cột cờ gãy và các sĩ quan cao cấp trong bộ Tổng tham mưu trấn an binh sĩ bằng đủ mọi cách nhưng lòng người vẫn xao xuyến. Vì tập quán, vì mê tín dị đoan, ai ai cũng đinh ninh đó là điềm xấu.
* Lời tướng Giai về cuộc chiến Quảng Trị
Cũng trong thời gian công tác tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB, nhà văn Lê Huy Linh Vũ đã có cuộc phỏng vấn tướng Vũ Văn Giai, ông được vị tư lệnh Sư đoàn 3 thố lộ một số chi tiết về tình hình trận liệt với nội dung được ghi nhận như sau:
Tôi (Lê Huy Linh Vũ) nhớ đến vụ cột cờ gãy khi chiều và mơ hồ có linh cảm những lời tướng Giai sắp thố lộ với tôi có thể là lời nói cuối cùng của một vị tướng. Tôi mở to mắt, quan sát từng nét mặt của ông và chuẩn bị nghe thật kỹ những lời ông nói, tay ghi chép thật nhanh cho kịp.
Tướng Giai bắt đầu phân tích và so sánh tình hình ta với địch. Ông cho biết qua tình báo và khẩu cung tù binh, CQ vừa tung thêm vào chiến trường Sư đoàn 325 từ bên kia vĩ tuyến 17 mới xâm nhập qua bốn năm hôm nay thôi. Sự có mặt của Sư đoàn 325 CSBV nâng tổng số địch hiện diện trong vùng Quảng Trị và Đông Hà lên đến 4 sư đoàn. BB thì có các sư đoàn 304, 308 và 325. Ngoài ra còn có hai trung đoàn pháo và 1 trung đoàn chiến xa, chưa kể du kích, dân công.
Đối diện với 4 sư đoàn địch, ta chỉ có 2 sư đoàn. Gọi là 2 sư đoàn nhưng thật ra chỉ có 1 sư đoàn chính thức, còn lại là các binh đoàn thuộc đủ mọi binh chủng: TQLC, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Địa phương quân, Nghĩa quân, tập đoàn quân này tuy đông nhưng rời rạc, không có sự thống nhất chỉ huy, khó điều động. Về sư đoàn chính thức là Sư đoàn 3 BB mà ông hãnh diện chỉ huy từ hơn 6 tháng qua (thành lập ngày 1 tháng 10/1971). Tuy quân số và trang bị chưa đầy đủ, huấn luyện chưa xong, nhưng đã một thân một mình lúc đầu trong khi chờ đợi các đơn vị bạn đến tiếp cứu. Chận được địch tại phòng tuyến Đông Hà khi trận chiến xảy ra đó là công của Sư đoàn 3 BB vì mãi đến 4, 5 ngày sau BĐQ và TQLC mới được vận chuyển đến nơi. Sau một tháng trời chiến đấu, sư đoàn hao hụt hết 1 trung đoàn phải đưa về căn cứ Nancy (gần Mỹ Chánh) dưỡng quân và bổ sung quân số. Đó là trung đoàn 56 BB của nguyên trung tá Phạm Văn Đính đã bị địch bắt sống và hiện do trung tá Vĩnh Giác xử lý thường vụ trung đoàn trưởng. Phần còn lại của trung đoàn, khoảng trên 1 trung đoàn, được rải dọc theo bờ nam sông Đông Hà, hiện giờ là tuyến đang giáp địch.
Điều động phòng thủ tuyến Đông Hà có một bộ Tham mưu đặt tại căn cứ Ái Tử. Ông chỉ giữ lại 1 tiểu đoàn để bảo vệ bộ Tư lệnh Sư đoàn đóng ở Quảng Trị. Đó là tiểu đoàn 2 đang giữ cầu Quảng Trị (bắc ngang sông Thạch Hãn) và rải theo bờ Nam sông này.
Lực lượng trung ương đến tăng cường thì được phân phối: lữ đoàn TQLC phòng thủ khu vực Tây Bắc của chiến trường từ bờ sông Đông Hà đến bờ Tây Bắc sông Thạch Hãn, 3 liên đoàn Biệt động quân giữ mặt Tây với La Vang là địa điểm trọng yếu, rút về cố thủ nếu địch mạnh ta yếu và dùng bàn đạp dồn địch trở lên núi ra tới biên giới Việt Lào nếu ta mạnh địch yếu. Địa phương quân có Thiết giáp tăng cường được giao phó trọng trách bảo vệ Quốc lộ 1, con đường tiếp liệu chính nối liền với hậu tuyến là Huế. Quyền điều động Địa phương quân nằm trong tay đại tá Phan Bá Hòa, tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Quảng Trị.
Sau khi đề cập sự phối trí lực lượng, tướng Giai giải thích cho biết quan niệm chiến thuật mới của ông. Theo vị tư lệnh này, địch đánh từng giai đoạn một: giai đoạn thứ nhất, sư đoàn 304 và 308 vượt sông Bến Hải chiếm đến Đông Hà thì hết nhiệm vụ, ngừng lại nghỉ ngơi và nhường chỗ cho sư đoàn 325 thực hiện giai đoạn 2 tiến chiếm Quảng Trị. Nếu chiếm được Quảng Trị, sư đoàn 325 sẽ dừng lại nhường cho một đơn vị khác vượt lên tiến đánh Huế, đó là giai đoạn 3. Mỗi giai đoạn, địch luôn luôn dùng đơn vị mới chưa xáp trận tinh thần chưa bị lung lạc nhờ vậy tiến quân rất nhanh và đánh rất mạnh.
Để chận địch, ta lại luôn luôn dùng đơn vị cũ. Carroll, Gio Linh, A2, A1, C2... thì cũng Sư đoàn 3. Vỡ phòng tuyến thứ nhất, rút về lập phòng tuyến thứ nhì dọc theo sông Đông Hà thì cũng Sư đoàn 3 Bộ binh BB. Áp lực địch quá mạnh, phải bỏ Đông Hà, tập trung về Ái Tử lập phòng tuyến bảo vệ Quảng Trị thì lại cũng Sư đoàn 3BB nữa. Binh sĩ mệt mỏi, quân số hao hụt, đạn dược không được tiếp liệu kịp, di tản thương binh bị đình trệ, đó là những yếu tố bất lợi cho ta. Muốn chận địch ta nên thiết lập nhiều phòng tuyến, mỗi phòng tuyến do một đại đơn vị phụ trách. Vỡ phòng tuyến thứ nhất, đại đơn vị thứ nhất rút về qua khỏi tuyến thứ hai lập tuyến thứ ba. Địch tiến quân đến tuyến 2 đụng đơn vị mới của ta, sức lực tương đồng, cuộc tiến quân của địch chậm lợi, ta có thì giờ hoàn hảo hóa công sự bố phòng ở tuyến 3 để chờ địch.
Sau khi hỏi tôi đã ghi chép kỹ chưa và nghe tôi đọc lại đầy đủ gần như một cái máy ghi âm những lời ông nói, tôi chào tướng Giai ra về. Trở về phòng, tôi suy nghĩ về những lời nói của tướng Giai, số phận của thành phố Quảng Trị đã được định đoạt, chỉ còn vấn đề thời gian, tối nay, tối mai hay tối mốt. Địch sẽ vây chặt thành phố này. Tướng Giai sẽ tử thủ tại đây như tướng Hưng đã tử thủ tại An Lộc, liệu ta có tiếp viện kịp thời không, và bao lâu mới giải tỏa được vòng vây của địch. (V)
Kỳ sau: Trận chiến ở bờ Nam sông Thạch Hãn cuối tháng 4/1972.
Gửi ý kiến của bạn