Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Gửi bạn cùng khóa vài kỷ niệm học đường

20/11/202220:30:00(Xem: 3382)
Tạp ghi

hung


Tôi xin nhắc lại vài kỷ niệm với các bạn tại trường Quốc Gia Kỹ Sư Công Nghệ mà tôi còn nhớ được. Trường chúng ta không còn ở bên ta nữa, nhưng những kỷ niệm, những tình cảm thân thương dành cho trường và cho nhau, đã từ bao năm nay, dường như không thể phai mờ trong trái tim của mỗi chúng ta. Nhắc lại những kỷ niệm đó, không phải để nuối tiếc những gì đã qua hay đã mất, mà chính là để nuôi dưỡng những cái cần đượccần phải trân trọng giữ gìn.

 

Tôi xin bắt đầu với những kỷ niệm ấy nhé.

 

Làm báo trường

 

Sau bao năm xa cách, tôi lại được đọc mấy dòng thư của anh M.X. Thành viết cho tôi và nhắc về vài kỷ niệm tại trường, thật cảm động và vui làm sao. Tôi với anh Thành quả thật không xa lạ gì nhau vì trong thời gian “luyện kiếm” ở trường Công Nghệ. Ngoài việc học, chúng tôi còn cùng chia sẻ với nhau trong công việc báo chí cho sinh viên trường với tư cách tự biên tự diễn vào những năm 1966-1967, những năm có quá nhiều biến động chính trị trong nước. Anh Thành thì năng động lắm lại tha thiết với “nghề” làm báo nên anh thường quên cả ăn trưa để chăm lo cho tờ báo ấy. Nếu nói chỉ có anh Thành và tôi làm tờ báo thì không đúng mà đó là sự đóng góp vun trồng của toàn thể anh em lúc đó. Cũng vì sự quý trọng nhau nên anh Thành và tôi cứ nhường nhau chữ Trưởng ban báo chí, để cuối cùng khi tờ báo được “in” ra, hàng Trưởng ban báo chí trong danh sách Ban đại diện vẫn còn để trống, không ai chịu đứng tên cả.

 

Nhắc đến kỷ niệm làm báo, cái khó khăn lúc đó là vấn đề tài chính. Lấy đâu ra tiền để ra báo dù chỉ là in “Roneo”. Bài vở đóng góp thì nhiều mà tiền thì ít nên việc lựa chọn bài, ngoài cái hay của bài còn phải lưu tâm đến chiều dài của bài viết nữa, cần phải “nắn túi” xem có chịu đựng nổi nó hay không. Tôi nhớ có một năm phải lo cho tờ báo Tết thì phải, tờ báo mang tên “XANH” với tờ bìa là hình ảnh con bồ câu trắng tượng trưng cho hòa bình. Chúng ta không có có tiền nên đành phải “gà què ăn quẩn cối xay”, tôi vác “bị gậy” gõ cửa các vị giáo sư nhà để ăn xin. Giáo sư đầu tiên tôi gõ cửa là thầy Giám Đốc Bùi Tiến Rũng, thầy vui vẻ ủng hộ một cách hào phóng. Tôi lần lượt vác “gậy” đi gõ cửa các thầy khác và tôi không còn nhớ rõ thầy nào ủng hộ và ủng hộ bao nhiêu. Cũng may, thu vén, thêm thắt số tiền ủng hộ của các thầy vào, chúng ta cũng đủ sức để lo toan cho tờ báo ấy.

 

Chuyện học tập

 

Thấy anh Thành nhắc tới vài kỷ niệm trong trong Xưởng Cơ Khí của trường, tôi xin đóng góp thêm vài kỷ niệm của mình trong phạm vi cái xưởng thực tập ấy. Phần học tập trên Giảng đường ta sẽ tính sau.

 

Thú thật khi đi học, tôi thuộc loại “văn thì dốt mà vũ thì nhát (nhát gan)”. Học dũa thì không dám dũa vì sợ nó “bom-bê” (bombe’- convexe) nên cứ kiên nhẫn đứng mài cục sắt trên cây dũa “ba tạt” (dũa thô). Mài toát mồ hôi mà khi đo ra chẳng thấy kích thước nó suy xuyển chút nào. Tôi phải nhờ tới thằng bạn học cùng lớp thuộc loại “nhà nghề” như N.H. Thu ra tay cứu giúp.

 

Xưởng Rèn, tôi còn nhớ rõ lắm, có cái “búa máy” thật to hiệu “Titan”. Cái búa ấy to lớn kềnh càng làm tôi run sợ mỗi khi phải sử dụng nó.  Có một lần, trong phần thực tập, tôi phải làm cái “kìm rèn”. Phần đầu và phần thân kìm, tôi ì ạch rèn bằng búa tay mãi cũng xong, còn cái đuôi kìm thì phải dùng tới cái búa máy mới đủ sức kéo dài cái đuôi nó ra được. Nhìn cái búa máy khổng lồ ấy, tôi ngại làm sao. Trông mấy thằng bạn sử dụng nó, tôi thấy dễ quá mà. Cứ nung thỏi sắt nóng đỏ lên cho mềm, đặt nó lên mặt đe, lấy chân nhấn lên bàn đạp của máy xuống mạnh hay nhẹ tùy theo mình muốn búa đập xuống đe mạnh hay nhẹ. Trong khi chân nhấn xuống bàn đạp, để hòa nhịp với chân, hai tay dùng kìm lăn tròn đều thỏi sắt để búa đập xuống phần đã được nung đỏ. Và như thế, chỉ một loáng (một thoáng) thôi, cái đuôi kìm sẽ được thành hình. Trông chúng làm thì thấy dễ ợt mà sao tôi vẫn sợ. Năm lần bẩy lượt tôi cứ nung thỏi sắt cho đỏ, hăm hở chạy tới cái búa máy (phải chạy vội vì sợ cục sắt nguội), đứng ngập ngừng suy nghĩ, chờ đợi cái giờ phút quyết định trọng đại là đặt thỏi sắt đó lên mặt đe và nhấn bàn đạp cho búa đập xuống.


Tôi thuộc loại Quách Tĩnh trong truyện Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung, nghĩa là đầu óc chậm chạp ngập ngừng nên chưa quyết định xong thì thỏi sắt đã nguội mất rồi. Tôi lại hăm hở trở lại lò nung đỏ thỏi sắt trở lại. Cứ như thế và như thế, tôi rất bận bịu, tất bật trên con đường từ lò tới búa máy rồi lại từ búa máy tới lò. Thầy phụ tá ở Xưởng Rèn như hiểu được tâm can của thằng học trò nhát gan này. Thầy thương hại khi đứng nhìn thấy tôi cứ chăm chỉ và hăm hở chạy tới chạy lui. Thầy bèn ra tay nghĩa hiệp “nắn” dùm tôi cái đuôi kìm tròn trịa, xinh xinh bằng cái búa máy ấy. Thực ra thì thầy cũng hơi ác với tôi một tý. Tiện tay, còn một tý nữa thì xong, thầy lại bỏ lửng đưa tôi làm tiếp cái phần cỏn con còn lại. Tôi cũng để đuôi kìm lên đe, chân đạp xuống bàn đạp của búa. Búa đập xuống “chát chát” mấy tiếng inh tai. Tôi nhận ra ngay, hỡi ôi, cái đuôi kìm tròn trịa, xinh xắn trước đây nay đã trở thành dẹp lép. Tôi hốt hoảng rút vội đuôi kìm ra ngay khỏi mặt đe. Tiếng búa vẫn đập xuống đe dữ dội. Âm thanh của búa nay không còn “chát chát” nữa mà là những tiếng “choang choang” đổ vỡ. Ông thầy chỉ còn biết hét lên trong hốt hoảng “Buông chân ra! Buông chân ra! ...” Tôi vội vàng rút chân ra khỏi bàn đạp. Chiếc búa ngập ngừng lên xuống rồi ngưng. Không gian lúc đó trở nên yên lặng nặng nề, yên lặng một cách não nề, ngơ ngác. Ngơ ngác như tôi đang nhìn tiếc rẻ cái đuôi kìm đã trở nên dẹp lép cong queo, bỏ thì thương mà vương thì tội. Tôi chỉ còn biết đứng nhìn nét mặt chán chường thất vọng đến thảm não của ông thầy cùng với những nét mặt đáng ghét của những thằng bạn cùng lớp đang đứng bịt miệng cười, có thằng cười hô hố. Và cũng từ ngày ấy, cái ngày ngôi sao “búa tạ” chiếu đúng đỉnh đầu, tôi giã từ cái búa máy như giã từ vũ khí (tên phim Adieux aux arme) vậy.

 

Nay tôi xin nói về cái Xưởng Ô Tô. Sinh viên gọi nó là xưởng cho xôm tụ, cho oai, chứ thật ra “xưởng” ấy chỉ có mấy cái “đầu máy” ô tô mới, kể cả động cơ phản lực để chưng, chỉ để chưng thôi. Một cái máy ô tô duy nhất loại “bốn xi lanh, bốn thì” to bằng thân anh lực sĩ đã cũ mèm để sinh viên thực tập tháo ráp, tháo ráp thả cửa, tháo ráp vô tội vạ, tháo ráp không hề thương tiếc. Và tất nhiên là thầy Porteil (trưởng Xưởng Ô Tô) không cần phải lưu tâm tới việc sinh viên “đánh vật” với cái máy này mà sợ họ làm hư hỏng. Cái máy không thể hư thêm hoặc cũ thêm được nữa vì nó là máy phế thải. Sinh viên chia nhau ra mà “đánh vật” với máy, cứ hai người một lượt cho được công bằng. Tôi còn nhớ rõ, toán tôi gồm tôi và N.V. Bé, tên hắn là Bé nhưng thân xác lại to, sức lực lại dồi dào nên tôi cho hắn làm thợ chính, tôi làm thợ phụ, thứ thợ phụ chỉ để sai vặt mà thôi. Hắn bảo tôi xiết ốc là tôi xiết ốc, bảo mở ốc là tôi mở ốc. Nhiệm vụ quan trọng của tôi chỉ có thế, không thêm cũng không bớt. Sau mấy tiếng đồng hồ, hai kỹ sư tương lai “đánh vật” với cái máy, tháo hết các cơ phận ra rồi lại ráp chúng vào. Hai thằng hì hục thế nào mà khi ráp xong cái máy “tý hon” ấy lại như cũ thì còn dư đúng một lon đầy vừa cả ốc lẫn bù loong. Tôi và Bé nhìn nhau như đồng ý dấu lon “của nợ” ấy vào gầm tủ. Thầy Porteil trông thấy cười :“Kỹ sư giỏi là biết làm kinh tế giỏi, sau khi ráp máy xong tiết kiệm được một lon vừa ốc lẫn bù loong”. Cái cười của thầy thật nhân hòa nhưng cũng đủ làm hai thằng chúng tôi đỏ mặt. Hai thằng tôi còn nhớ mãi câu nói này cho tới bây giờ. Thỉnh thoảng gặp lại nhau ở San Jose vào những dịp tất niên thường vẫn nhắc lại để cười. Ai bảo Tây không biết nói “móc lò”.

 

Nay, tôi lại xin nhắc về Xưởng Đúc. Thầy Granotier dạy môn “Đúc kim loại” và cũng là trưởng Xưởng Đúc. Cái xưởng này đúng là nơi lý tưởng để đào tạo “xếp cu-ly”. Nhiều người hay nói đùa dân kỹ sư mình một cách rất thân thương như thế. Mỗi khi phải vào Xưởng Đúc thực tập thì người cứ “lấm như than” (không phải lấm như bùn). Anh nào anh nấy, đen thủi đen thui vì bụi than, khăn tay bịt mặt như chàng Zoro (phim ảnh cùng tên) đi bắt quân gian, bận rộn cuốc cuốc, xúc xúc đống than “hất” vào lò đốt. Thầy Granotier chỉ dễ tính khi chơi, chẳng hề dễ tính khi học bao giờ. Tôi nhớ có một lần, trong giờ thực tập, ông chợt hỏi tôi bằng tiếng Việt :“Mấy cái?” Nay tôi cũng chẳng nhớ ông hỏi là mấy cái gì, chỉ nhớ là phải tính toán cái gì gì đó, kết quả sẽ là bao nhiêu cái. Tôi giật mình lập lại nguyên văn câu hỏi của ông :“Mấy cái”. Ông cau mày hỏi lại :“Tôi hỏi anh, anh tính ra mấy cái?”. Tôi nhìn ông, mặt đỏ gay ấp úng không trả lời được. Thầy Granotier không hỏi nữa và bỏ đi. Tôi biết thầy không muốn làm mặt tôi phải đỏ thêm vì ngượng, ngượng vì tính mãi không ra được mấy cái. Tôi không thể nhớ nổi mấy cái “của nợ” ấy là mấy cái gì, tôi chỉ nhớ được hai tiếng “mấy cái” tiếng Việt ngắn ngủi mà lại thân thương đó. Nghe đâu vợ thầy là người Việt.

 

Khi nói tới Xưởng Đúc, tôi không thể không liên tưởng tới thầy Thoại và thầy Phục (thầy Phục là phụ tá thầy Granotier trong Xưởng Mộc làm khuôn đúc). Thầy Thoại dáng người nhỏ nhắn dễ thương, dạy môn “Luyện kim” và trông coi “Phòng thí nghiệm kim loại” có liên quan mật thiết với Xưởng Đúc. Thầy Thoại tốt nghiệp bên Đức về, phụ tá thầy Granotier. Mỗi khi thầy Thoại “lên lớp”, thầy ôm theo một chồng sách cao ngất ngưởng để trên bàn. Khi giảng bài, tay phải thầy viết lên bảng thì tay trái thầy lại xóa đi ngay. Lúc nào bảng cũng sạch sẽ, sinh viên vô phương chép lại cho đủ câu. Tay viết, tay xóa là cái tật của thầy, tính thì có thể sửa, tật thì chịu dù là sinh viên cố sửa cho thầy. Về sau sinh viên nghĩ ra cách chia nhau mỗi đứa viết vài chữ rồi ráp chúng lại với nhau để học. Bài học lúc đó toàn bằng tiếng Tây, thật khổ cho thằng tôi. Có những ông thầy Tây mới từ Pháp qua dạy, chưa quen “thổ ngơi”, cứ thao thao bất tuyệt, sinh viên chỉ còn biết há hốc mồm ngồi chiêm ngưỡng cái cảnh thầy giảng thầy nghe, không lấy “note” nổi.

 

Ngoài những xưởng kể trên, còn có những phân xưởng khác như phân xưởng Máy Dụng Cụ ngổn ngang những máy tiện, máy phay, máy bào; phân xưởng Gò Hàn. Đặc biệt có Phòng Thí Ngiệm về “sức chịu vật liệu” đứng độc lập do thầy Martin trụ trì. Thầy Martin dạy môn Sức Chịu Vật Liệu (Resistance Des Materiaux) và Kỹ Nghệ Họa (Dessin Industriel).

 

Nói đến thầy Martin, tôi nhớ tới tác phong chững chạc của ông, một người tốt nghiệp tại một trong những trường nổi tiếng bậc nhất nước Pháp (Art et Metiers),  và cũng là ông thầy có hình ảnh “thực dân” nhất trong số những ông thầy Tây mà tôi được học. Thực dân nhất nhưng cũng thương sinh viên nhất. Thầy không quản công sức giải đáp mọi thắc mắc của chúng ta và thầy cũng biết cười tủm tỉm với những câu hỏi xem chừng ra ngớ ngẩn. Mỗi khi thầy gọi sinh viên lên “hỏi bài”, ai không trả lời được thì ông cứ tự bứt đầu, bứt tai mình, dậm chân rồi đuổi “nạn nhân” về chỗ. Có một lần, đến phiên tôi “bị” thầy gọi lên bảng, thò chân vào dép “săng-đan” thì dép đã bị “thằng” nào chơi nghịch đá đi đâu mất rồi vì khi ngồi học tôi thường hay tháo nó ra khỏi chân cho mát. Tôi vội giật ngay đôi dép của thằng ngồi bên cạnh là N.B. Cương chạy phóng lên. May quá, hôm đó tôi trả lời được những câu hỏi hóc búa của thầy. Trước khi thầy cho điểm vào sổ, thầy khẽ ngửng đầu lên nhìn tôi mỉm cười, cái mỉm cười hiếm hoi ấy làm tôi nhớ tới bây giờ. Thoát. Tôi nhớ thầy Martin dùng cuốn sách “Resistance Des Materiaux” của Chillon, tôi phải “order”  từ bên Pháp, đợi đến nửa năm sách mới về nên chỉ đủ kịp dùng cho nửa năm học còn lại. Bộ sách “Element De Constructions” gồm 10 cuốn, thời gian tôi đặt mua cũng phải mất nửa năm, nhưng được cái bộ sách này dùng được cho đến khi ra trường, khi ra trường vẫn còn dùng nó được để tham khảo khi cần. Sinh viên Việt Nam ta lúc đó khổ thế đấy. Sách toán hay vật lý của Pháp ở bậc Trung học thì học sinh ta có thể mua dễ dàng ngay tại nhà sách Khai Trí nằm trên đường Lê Lợi, không khó khăn gì. Tôi nhớ cuốn sách giải toán “Journal De Mathematique” gồm những bài giải các đề thi tuyển của các trường lớn bên Pháp, rất hay.

 

Những câu chuyện ở Xưởng Cơ Khí thì nhiều lắm lắm, mỗi phân xưởng tôi đều có những kỷ niệm cần được kể ra. Và nói đến Xưởng Cơ Khí mà không nhắc tới những buổi Lễ nhập môn hay những buổi Dạ vũ tất niên hàng năm nổi tiếng thì thật là một thiếu sót vô cùng, nhưng tôi xin để dành khi khác.

 

Chuyện thể thao

 

Thôi, tôi tạm rời cái Xưởng Cơ Khí độc đáo, thân yêu duy nhất của Trường để ra sân bóng truyền cho dãn gân dãn cốt. Tôi xin kể một vài kỷ niệm ở cái sân bóng truyền này.

 

Ngoài cái bản chất “văn thì dốt vũ thì nhát” ra, thể lực của tôi hồi đó thuộc loại “ho hen gày còm”, “liễu yếu đào tơ (?!)” một thứ liễu ăn thì nhiều mà chẳng béo (mập) lên được bao nhiêu, có lẽ giun sán ăn cả. Tôi ra sân với cái thân khẳng khiu, Vì khẳng khiu nên tôi không bao giờ dám cởi áo hay quần dài khi ra sân vì sợ các cô, những bông hoa thướt tha biết nói hiếm hoi bên trường Kỹ Sư Hóa Học gần đó chiêm ngưỡng. Tôi cứ đóng nguyên bộ, vẫn giầy, vẫn áo trong quần và vẫn thắt lưng da chỉnh tề. Vì khẳng khiu nên bọn cùng “team” chỉ cho tôi đứng sát lưới và chỉ được đánh banh khi chúng gọi tới tên. Tôi chỉ còn biết đứng sát lưới nhìn trái banh qua lại. Chúng nâng, chúng truyền, chúng đập không hề có tôi được dự phần vào và chỉ cho tôi dự phần vào những trái thuộc “trái hư, trái thối” mà chúng đánh hỏng hay không thể đỡ nổi. Hễ trận nào thua là chúng đem tôi ra làm thịt, đổ thừa. Toán thua phải đãi toán thắng một chầu Hải Ký Mì Gia trong Chợ Lớn. Tiền tôi kiếm được của những ngày “kèm học tư gia” cho con nhà giàu, hay mở lớp luyện thi đều thay phiên “cúng” cho chúng cả. Còn một tay ra sân cũng “cậu” như tôi là N. B. Cương (vừa sau khi ra trường, Cương có học bổng của chính phủ Pháp cho theo học tiếp ở bậc Tiến sĩ cùng với C.T. Thiện và N.X. Thanh. Thiện mới mất năm 2020 tại Paris). Người to mồm hay “nạt nộ” anh em nhất trong “team” vẫn là “người ruồi reo máu lửa” (tên phim) N.H Thu (mới mất năm 2021 ở Úc). H.D Bình (nay sống ở Pháp) thì đánh banh cứ như múa, khều khều như sợ trái banh đau hay sợ bẩn tay vậy. Hắn xà ẹo xà ẹo, uốn éo mỗi khi đánh banh, nhưng nhờ hắn cao nên “đập” banh rất hay và “cản” banh rất nghề. H. Thanh (nay sống ở Mỹ) thì lâu lâu mới ra sân, luôn đứng cuối sân để “cầy” banh lên. Những hôm trời mưa, banh ướt sũng, vừa trơn vừa nặng, lúc đó H. Thanh trở thành tay “cầy” số một. Tất nhiên, những hôm trời mưa như thế thì tôi thất nghiệp, chỉ được ngồi ngoài vỗ tay cổ võ, nhưng nếu “team” phe ta thua thì vẫn cứ phải góp phần cùng “chung tiền” cho phe thắng đi ăn. Nhớ đến “chúng”, những người bạn cùng khóa (25 người) (1) hay bạn đồng môn, là tôi như đang nhớ đến những ngày vui trong đời.

 

Nhiều chuyện để kể lắm, như chuyện ăn chơi, nhảy đầm và những chuyện học hành trên Giảng đường cũng xin được hẹn kỳ sau, tôi xin được tạm ngừng kể lể ở đây.

 

Kết luận

 

Bốn năm học ở trường QGKSCN là bốn năm xương máu của tôi, bốn năm để lại cho tôi biết bao vui buồn hỗn độn, thất thường. Đúng như anh M.X Thành nói, khi còn trẻ ta sống với tương lai, lúc về già sống với quá khứ. Nay về hưu, ngồi nghĩ lại, tôi mới nhận ra rằng những kỷ niệm xa xưa ấy lại thường chính là một trong những nguồn hạnh phúc của tôi lúc này, lúc ở cái tuổi “chưa già nhưng không còn trẻ nữa”, hay nói cách khác ở cái tuổi “chớm già” hay “bát thập cổ lai hy”, hay “U90”.

 

– Nguyễn Giụ Hùng

 

(1)  Số sinh viên tối đa được trường QGKSCN tuyển vào học hàng năm qua một kỳ “thi tuyển” toàn quốc.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.