Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Không đầu không đuôi...

13/11/202217:14:00(Xem: 2718)


nhau


Tôi loay hoay mấy bận mà không viết được, trong lòng vẫn còn nhiều cảm xúc lẫn lộn thật khó nói nên lời. Những cảm xúc cứ cuồn cuộn làm cho tôi không biết nên bắt đầu viết như thế nào, vả lại những điều mắt thấy tai nghe, những câu chuyện không đầu không cuối đầy ắp nên không biết điều nào nên lấy cái nào lược bớt đi.

 

Bước đầu tiên khi về là gặp ngay những bộ mặt lầm lì, những ánh mắt xét nét của nhân viên hải quan. Họ hầu như vô cảm, sau khi xem xét hộ chiếu, thị thực xong. Họ chẳng chịu trả lại cho khách. Họ cứ ngồi quan sát dòng người đang xếp hàng, ánh mắt liếc ngang liếc dọc tìm kiếm và lượng định con mồi. Trước khi đi ai cũng bảo kẹp tiền vào hộ chiếu để họ làm việc cho nhanh. Tôi thì không! Kiên quyết không! Đồng hương gốc mít cũng lạ thiệt, khi ở bên ngoài thì hùng hổ lắm nhưng về đến cửa khẩu là khép nép, khúm núm và ngoan ngoãn chi lạ!

 

Những ngày ở Sài Gòn tôi lang thang nhiều nơi để tìm lại những kỷ niệm xa xưa, thât tình mà nói thì hoàn toàn thất vọng, có lẽ tôi sống bằng nhiều tâm tưởng, bằng mộng mơ nên khi đối diện thực tế thì vỡ mộng! Khi chưa về tôi vẫn mường tượng sài Gòn thế này, sài Gòn thế kia nhưng về rồi thì ngán! Cả một biển người trên đường phố, xe cộ gầm rú đinh tai nhức óc, dòng xe cuồn cuộn ken kín các ngả đường, ở những giao lộ thì thật kinh khủng, phải nói là một sự hỗn loạn không thể tưởng được. Hình như tất cả mọi người tuôn hết ra đường để mưu sinh?  Những quán xá, tiệm buôn hai bên đường, những khu chợ, hẻm… Mọi người tràn ra chen lấn cả vỉa hè thậm chí cả lòng đường. Sài Gòn chỉ sang trọng và đẹp ở vài khu vực quận nhất, quận ba còn lại thì cả thành phố cũng như ngày nào. Chợ Lớn cũng thế, cũ kỹ, ồn ào, dơ dáy… Sài Gòn ngày nay phân hóa rất mạnh, những cao ốc mọc lên nhan nhản, nhất là khu vực bờ sông Sài Gòn, khu vực Thảo Điền, Phú Mỹ Hưng… Và ở những khu này thì đa số là người Hàn quốc, người ngoại quốc. Họ là những doanh nhân, nhân viên của các công ty sang Việt Nam làm ăn và sinh sống. Sài Gòn hoa lệ, Sài Gòn hoàn ngọc viễn đông… chỉ e là ngôn từ trong sách vở mà thôi! Các quan lạc quan tếu, mạnh miệng tuyên bố:” Nơi đáng sống nhất quả đất”, “ chẳng thua gì Singapore, Paris...”, “ Cột điện cũng rủ về đây sống”… Nếu các vị thử đi một vòng kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè thì ắt hẳn tắt tiếng, nước đen ngòm, rác rến lềnh phềnh, hôi thối dễ sợ ấy là đã cải tạo rồi đấy nhé! Những hàng cây xanh tuổi đời trăm năm bị cắt sạch ráo rồi. Trẻ em, người già, người tàn tật xin ăn, bán vé số khắp phố phường. Nạn cướp giật không còn phải nói nữa, bây giờ lớp người xài ma túy, thuốc lắc tràn lan. Những nhóm giang hồ xã hội đen lộng hành như chỗ không người, chúng kéo lê mã tấu tóe lửa trên đường. Sài Gòn mưa là ngập, thậm chí không mưa cũng ngập. Tôi ghé thăm một nhà người thân ở Thanh Đa, Bình Thạnh, khi đến rất bình thường, khi về, bước ra cửa thấy nước đã lênh láng đến tận đầu gối. Hòn ngọc viễn đông như thế này sao? Có một điều không thể phủ nhận là ở Sài Gòn cũng sướng thật, có tiền là ăn chơi mát trời ông địa, muốn gì cũng có, thích gì cũng chìu, rượu thịt, mát xa, gái gú… không thiếu món nào. Giới có tiền, Việt kiều, đại gia cứ ăn chơi phè phỡn như thể những ông trời con.

 

Sài Gòn ngày xưa, Sài Gòn trong tâm tưởng của tôi là những con đường rợp mát hàng me, hàng xà cừ, những cây dầu thả trái xoay tít trên không trung. Sài Gòn ngày xưa đẹp, thanh lịch dễ thương. Sài Gòn nay nhiều cao ốc hơn, giàu có hơn, hiện đại hơn nhưng quá xô bồ, hỗn tạp và rất nghiệt ngã. Sài Gòn nay rác rến quá nhiều, rác khắp mọi nơi, bụi đất kinh khủng, bụi bám trên bề mặt của nhà cửa, xe cộ, trên mọi vật và dĩ nhiên trên cả áo quần và trên mặt người.

 

Có một điều tôi nhận thấy là quê hương mình giờ nhiều rác quá, chỗ nào cũng rác, thành phố, thị trấn, thôn quê, đồng ruộng, sông biển, núi rừng… đâu đâu cũng rác thải, nhiều nhất là túi nylon, hộp xốp… Người quê mình giờ xài túi nylon kinh khủng quá, món ăn thức uống, vật dụng… bất cứ thứ gì cũng đựng trong túi nylon, rác thải bừa bãi khắp mọi nơi. Người ta có thể ngồi ăn thoải mái vui vẻ ngay cạnh miệng cống, bàn ghế bé tí tẹo và trên mặt đất rác, giấy, thức ăn thừa, nước bẩn… vung vãi lung tung. Hình như mọi người đã quen sống chung với rác nên chẳng ai thấy dơ.

 

Người quê mình giờ ăn nhậu kinh khủng quá, có thể nhậu bất cứ lúc nào, mà đã nhậu là nhậu tới bến mới chịu. Sài Gòn cũng như cả nước quán nhậu khắp mọi ngả đường, có thể nói là sáng cà phê chiều nhậu. Ngày nay nam nữ bình đẳng, chị em cũng nhậu không kém gì nam nhi. Ở quê mình mà không nhậu thì không làm ăn gì được, mọi giao dịch, mọi công đoạn của công việc đều bắt đầu ở bàn nhậu. Hạng sang thì nhà hàng tửu điếm cao cấp. Hạng xoàng hơn thì có những quán bậc trung, còn hạ lưu hơn nữa thì quán bình dân. Quán nhậu và những tiệm Karaoke luôn làm hài lòng khách bằng mọi chiêu mà họ có thể nghĩ ra.

 

Trước khi về tôi có nhiều dự định sẽ làm việc này, thăm người nọ… nhưng khi về đến nơi thì chẳng làm được việc gì cả, ngay cả việc đến bái kiến thầy, một bậc long tượng thiền môn thời hiện đại cũng không làm được. Có quá nhiều trở ngại và khó khăn đối với tôi. Duy có mỗi một việc không có trong dự tính lại xảy ra. Tôi đã gặp nhóm nhà văn, nhà thơ, họa sĩ của tạp chí Quán Văn: Họa sĩ Lê Triều Điển, họa sĩ kiêm thi sĩ Lê Triều Hồng Lĩnh, nhà văn Đặng Châu Long, nhà văn Trương Văn Dân và vợ là nữ văn sĩ Elena… Chúng tôi gặp nhau ở cà phê “Tắt Đèn” tại chung cư Ngô Tất Tố. Các nghệ sĩ này vẫn gặp nhau hằng tuần ở quán cà phê cóc của chung cư và gọi vui là vậy. Tạp chí Quán Văn hình thành và duy trì mười mấy năm nay là nhờ công sức và tâm huyết của anh Nguyên Minh, anh đã tuổi cao sức yếu nhưng vì đam mê văn thơ mà một mình đứng ra cáng đáng công việc. Anh đã dành hết công sức và tâm huyết để Quán Văn được sống. Quán Văn có thể xem như báo ngoài luồng, không phải dòng chính thống. Người phụ trách phải xin giấy phép và phải rất linh hoạt, uyển chuyển để nó được sống. Quán Văn là sân chơi của những cây bút còn sót lại từ trước bảy lăm và những cây bút sau này nhưng có quan điểm tương đồng với nhau.

 

Người quê mình giờ giàu có và khá giả hơn xưa rất nhiều, rất nhiều người giàu lên và rất nhiều đại gia. Người quê mình hễ giàu có một tí là cố khuếch trương lên cho cả làng biết, thậm chí không giàu cũng làm ra vẻ giàu. Người giàu dù chỉ là cấp phường, xã cho đến hàng đại gia cấp tỉnh thành hay cấp quốc gia… đều có chung đặc điểm là “chảnh” và rất khinh người, cách đối xử của người giàu ở quê mình đối với người nghèo rất hách dịch. Quê mình giờ đồng tiền là tối thượng, nó sai xử hết mọi mối quan hệ trong xã hội và mọi người đổ xô đi kiếm tiền. Mục đích một bộ phận người mình giờ chỉ có tiền, tiền và tiền. Một phần lớn người mình chỉ sống gói gọn trong công thức: Làm tiền (bằng mọi giá), làm tình và ăn nhậu, ngoài ba việc ấy ra thì chẳng quan tâm bất cứ thứ gì khác!

 

Người mình giờ tràn ra đường để kiếm tiền, cảnh sát công lộ cũng tranh nhau chi tiền để được đứng đường, đứng đường mới có tiền, còn như ngồi bàn giấy thì treo mỏ. Người mình giờ mê tín một cách không tưởng tượng nổi, chức quyền càng cao càng mê tín bạo hơn. Họ có thể cúng bái từ gốc cây, cục đá, con vật… cho chí những hiện tượng tự nhiên rất bình thường. Họ đốt vàng mã nhiều không sao kể xiết, vàng mã không còn là những món: Tiền, vàng,bạc, áo quần như ngày xưa, giờ những lò sản xuất cập nhật nhanh chóng làm ra tất cả nhựng món đồ theo trào lưu hiện đại như: iPhone, iPad, Apple Watch, máy tính… Cứ đến ngày mùng hai và ngày mười sáu âm lịch của mỗi tháng là cả Sài Gòn nhà nào cũng bày mâm cúng trước nhà, trước xe, trước sạp hàng, trước cửa tiệm... Họ cúng ai, cúng gì hổng biết nhưng khói nhang nghi ngút, tro đốt vàng mã bay khắp phố phường. Dân mê tín một, quan gia và đại gia mê tín gấp ngàn lần, bọn họ đi chùa, miễu, đình, am… khắp nơi, sẵn sàng bỏ ra bạc tỉ để hối lộ thánh thần, rất hăng say góp của xây mới hay làm mới lại những cơ sở thờ tự dù là chánh phái hay tà môn ngoại đạo. Quan gia giờ người nào cũng xây nhà thờ họ, lập gia phả… thậm chí đúc tượng để lại cho đời sau.

 

Về quê gặp thân nhân, gặp bạn bè thì vui thật, nhưng tôi nhận ra về chơi dăm ba bữa thì được chứ ở lâu dài thì chắc chắn là không được! Tôi biết mình sẽ rất khó khăn để tái hòa nhập lại với môi trường sống như thế này. Tôi biết tánh tôi, tôi biết tôi sẽ bị loại khỏi cuộc chơi sớm thôi! Thật sự tôi không thể chịu nổi cái cung cách của người mình, sao mà nó lề mề, lùi xùi và luộm thuộm quá. Người mình nhậu và hút thuốc kinh khủng quá, hút thuốc mọi lúc, mọi nơi. Khói thuốc 1á ám ảnh tôi vào tận trong giấc ngủ chập chờn.

 

Người mình với chính quyền giống như hai đường song song, quan nói mặc quan, ai nghe cũng biết xạo nhưng cũng phải nghe và phải làm theo. Ai cũng biết xạo nhưng ai cũng cười mà chẳng ai dám nói khác. Dân thích Mỹ, khoái Tây nhưng quan thì ôm Tàu. Quan nói có thì dân nói không, quan bảo không thì dân nói có. Tuy vậy cũng có điểm chung, cả dân lẫn quan đều tìm đường cho con cái mình sang Mỹ sang Tây. Những kẻ giàu có dù là quan hay dân cũng đều cố kiếm cái thẻ xanh hay quốc tịch nước ngoài, mở tài khoản nước ngoài, mua nhà ngoại quốc lót ổ sẵn… Người mình giờ tếu lắm, hễ thấy biệt phủ, dinh thự hay gia sản kếch xù của quan là lập tức bảo rằng: “Giàu là do buôn chổi đót, chạy xe ôm, thả nái, bán trà đá, bán vé số...”

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 11/22)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.