Cũng như tất cả những người Việt Nam khác, tôi đang nói và viết bằng ngôn ngữ Việt, ai cũng bảo tiếng Việt là chữ quốc ngữ. Thậm chí như cụ Phạm Quỳnh còn đề cao:”… Tiếng Việt còn thì nước Việt còn...” nhưng thật sự tiếng Việt lại không phải do người Việt chế ra, ấy là nhờ công của những giáo sĩ phương tây, cụ thể như những giáo sĩ: Francesco Buzomi (Ý), Diogo Carvalho, Antonio Diaz, Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Alexandre de Rhodes…
Thuở ấy, khi các giáo sĩ theo thuyền buôn đến nước ta truyền đạo, họ đã đến thương cảng Nước Mặn thuộc xứ Đàng Trong. Họ đã gặp nhiều gian khó và nguy hiểm nhưng may mắn được quan khám lý Trần Đức Hòa trợ giúp. Trong quá trình truyền đạo họ cảm thấy chữ Hán quá khó khăn và họ đã dùng mẫu tự Latinh để chế ra một loại ngôn ngữ mới. Việc này đòi hỏi nhiều công sức và trí huệ nhưng với quyết tâm và tài năng họ đã làm được. Chữ quốc ngữ dần dần hình thành, cơ sở đầu tiên chính từ một ngôi nhà tranh vách lá ở gần cảng Nước Mặn và cũng từ đấy nhiều nhà thờ mọc lên quanh đây. Ngày nay, nơi này chỉ là một mảnh đất nhỏ xíu, người ta dựng một cội cây bằng xi măng, trên ấy có gắn bảy tấm bia đá khắc bảy ngôn ngữ để tưởng nhớ cái nôi ra đời của chữ quốc ngữ.
Tiếng Việt sơ khai hình thành bởi các cha cố: Francesco Buzomi, Francisco de Pina… nhưng phải đến Alexandre de Rhodes thì tiếng Việt mới hoàn chỉnh và cũng chính ông và vài cộng sự khác như: Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa đã viết quyển từ điển Việt-Bồ-La. Có thể xem đây là quyển sách tiếng Việt đầu tiên trong lịch sử của nước ta và cùng với quyển: Phép giảng tám ngày là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in ở nước ta.
Cảng thị Nước Mặn thời ấy sầm uất và tấp nập, tàu buôn nước ngoài vào ra thông thương khá dễ, các cha cố đến truyền giáo và dựng nhiều nhà thờ ở đây. Ngày nay vẫn còn khá nhiều họ đạo quanh vùng. Tiểu chủng viện Làng Sông là nơi được đặt nhà in đầu tiên của Việt Nam. Nếu giai đoạn 1618-1622 là lúc hình thành chữ quốc ngữ, đến 1626 về sau là lúc chữ quốc ngữ phát triển. Tiểu chủng viện Làng Sông ngoài ngôi giáo đường ra còn có nhiều tòa nhà khác phục vụ việc truyền giáo và đào tạo các nữ tu. Giai đoạn 1864-1878 cha cố Eugene Charbonnier Trí đã điều hành nhà in, năm 1904 cha cố Damien Grageon Mẫn đã tái thiết lại. Nhà in hoạt động đến 1935 thì chấm dứt, những máy in typo được nhập từ Pháp, nhà in thuộc tiểu chủng viện Làng Sông từng in báo Lời Thăm phát hành cả Đông Dương, lúc cực thịnh in đến 1000 đầu sách với 32.000 ấn phẩm. Đến năm 1922 số sách được in lên đến 63.185 với 3.407.000 trang giấy. Sau năm 1935 thì nhà in tiểu chủng viện Làng Sông ngừng hoạt động, một số máy in chuyển về nhà thờ Mằng Lăng, đến năm 1947 thì Việt Minh trưng dụng tất cả các máy in của nhà thờ và kể từ đây hoàn toàn chấm dứt một nhà in đầu tiên của nước Việt.
Hơn 400 năm sau, một gã du tử người Việt quay về thăm lại nơi phôi thai chữ quốc ngữ và nơi in những quyển sách Việt đầu tiên mà lòng cảm khái. Nhìn những di ảnh và di vật thấy xúc động khôn tả, tưởng nhớ công lao người xưa đã dày công dụng trí để chế ra một ngôn ngữ mới mà ngày nay mình gọi là tiếng Việt. Bốn trăm năm so với lịch sử thì chẳng là bao nhưng thế sự thăng trầm đã làm mai một đi tất cả. Cảng Nước Mặn giờ đây đã lùi vào dĩ vãng, còn chăng là trong sách vở và trong tâm tưởng. Ngôi nhà tranh nơi chữ quớc ngữ hình thành thì hoang phế lau lách đìu hiu. Tiểu chủng viện Làng Sông còn đó nhưng nhà in cũng đã quên lãng lâu rồi, nhớ chăng chỉ là những kẻ còn hoài cổ, những người còn hướng vọng tiền nhân.
Tộc Việt thuở ban đầu chỉ khu trú vùng trung du bắc bộ, lần hồi xuống đồng bằng và tiệm tiến về phương nam. Tộc Việt thuở ban đầu dùng thổ ngữ gì thì chúng ta chưa biết được, mãi đến khi người Hán xăm lăng và đô hộ thì chúng ta sử dụng chữ Hán làm ngôn ngữ chính thức. Người Hán muốn dùng chữ và văn hóa Hán để đồng hóa chúng ta nhưng họ đã thất bại. Tộc Việt dùng chữ Hán hai ngàn năm nhưng chúng ta vẫn là chúng ta. Những nhân vật mà sử sách còn ghi nhận như: Nhâm Diêm, Tích Quang, Sĩ nhiếp… là những nhà cai trị và cũng là những người truyền bá chữ Hán cho tộc Việt. Trong quá trình sử dụng chữ Hán chúng ta có chế ra chữ Nôm nhưng xem ra không được coi trọng, chỉ có mỗi vua Quang Trung là người khuyến khích và công nhận chữ Nôm. Thời thế thay đổi, khi các giáo sĩ phương tây đến nước ta truyền giáo, họ đã dùng mẫu tự latinh để chế ra chữ Việt, tính từ sơ khởi cho đến ngày nay thì cũng đã bốn trăm năm rồi.
Tôi về thăm cái nôi sơ khai phát sanh chữ Việt và nhà in sách Việt đầu tiên của nước mình. Lòng bâng khuâng thương nhớ chi lạ, nhớ buổi đầu gian khó và công lao của các giáo sĩ tây phương, họ đã dùng năng lực trí huệ của mình để chế ra một loại ngôn ngữ mới cho người Việt. Tôi ngẩn ngơ trước hình ảnh những máy in và các ấn phẩm của nhà in trong tiểu chủng viện Làng Sông, những cuốn sách tiếng Việt đầu tiên của người Việt Nam. Dĩ vãng đã qua, nền xưa của ngôi nhà tranh nơi các giáo sĩ sống tạm dùng đó làm nơi chế ra chữ Việt, giờ chỉ là một cái nên xi măng trơ trọi cô liêu giữa một xóm nghèo ở vùng quê. Người đời đã quên, phần lớn chúng ta không còn ai biết gì về nơi phôi thai tiếng Việt cũng như nhà in sách tiếng Việt đầu tiên. Nhà in trong tiểu chủng viện Làng Sông ngày nay không còn , còn chăng là những tấm ảnh chụp lại, những ấn phẩm đã ố vàng nằm im lìm trong tủ kiếng, họa hoằn lắm mới có khách vãng lai đến nhìn xem chốc lát rồi đi.
– Tiểu Lục Thần Phong
(Ất Lăng thành, 10/2022)