Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Từ nơi xuất phát...

06/11/202210:27:00(Xem: 2704)
Bút ký

nhà in tiểu chủng viện Làng Sông


Cũng như tất cả những người Việt Nam khác, tôi đang nói và viết bằng ngôn ngữ Việt, ai cũng bảo tiếng Việt là chữ quốc ngữ. Thậm chí như cụ Phạm Quỳnh còn đề cao:”… Tiếng Việt còn thì nước Việt còn...” nhưng thật sự tiếng Việt lại không phải do người Việt chế ra, ấy là nhờ công của những giáo sĩ phương tây, cụ thể như những giáo sĩ: Francesco Buzomi (Ý), Diogo Carvalho, Antonio Diaz, Francisco de Pina (Bồ Đào Nha), Alexandre de Rhodes…

 

Thuở ấy, khi các giáo sĩ theo thuyền buôn đến nước ta truyền đạo, họ đã đến thương cảng Nước Mặn thuộc xứ Đàng Trong. Họ đã gặp nhiều gian khó và nguy hiểm nhưng may mắn được quan khám lý Trần Đức Hòa trợ giúp. Trong quá trình truyền đạo họ cảm thấy chữ Hán quá khó khăn và họ đã dùng mẫu tự Latinh để chế ra một loại ngôn ngữ mới. Việc này đòi hỏi nhiều công sức và trí huệ nhưng với quyết tâm và tài năng họ đã làm được. Chữ quốc ngữ dần dần hình thành, cơ sở đầu tiên chính từ một ngôi nhà tranh vách lá ở gần cảng Nước Mặn và cũng từ đấy nhiều nhà thờ mọc lên quanh đây. Ngày nay, nơi này chỉ là một mảnh đất nhỏ xíu, người ta dựng một cội cây bằng xi măng, trên ấy có gắn bảy tấm bia đá khắc  bảy ngôn ngữ để tưởng nhớ cái nôi ra đời của chữ quốc ngữ.

 

Tiếng Việt sơ khai hình thành bởi các cha cố: Francesco Buzomi, Francisco de Pina… nhưng phải đến Alexandre de Rhodes thì tiếng Việt mới hoàn chỉnh và cũng chính ông và vài cộng sự khác như: Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa đã viết quyển từ điển Việt-Bồ-La. Có thể xem đây là quyển sách tiếng Việt đầu tiên trong lịch sử của nước ta và cùng với quyển: Phép giảng tám ngày là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in ở nước ta.

 

Cảng thị Nước Mặn thời ấy sầm uất và tấp nập, tàu buôn nước ngoài vào ra thông thương khá dễ, các cha cố đến truyền giáo và dựng nhiều nhà thờ ở đây. Ngày nay vẫn còn khá nhiều họ đạo quanh vùng. Tiểu chủng viện Làng Sông là nơi được đặt nhà in đầu tiên của Việt Nam. Nếu giai đoạn 1618-1622 là lúc hình thành chữ quốc ngữ, đến 1626 về sau là lúc chữ quốc ngữ phát triển. Tiểu chủng viện Làng Sông ngoài ngôi giáo đường ra còn có nhiều tòa nhà khác phục vụ việc truyền giáo và đào tạo các nữ tu. Giai đoạn 1864-1878 cha cố Eugene Charbonnier Trí đã điều hành nhà in, năm 1904 cha cố Damien Grageon Mẫn đã tái thiết lại. Nhà in hoạt động đến 1935 thì chấm dứt, những máy in typo được nhập từ Pháp, nhà in thuộc tiểu chủng viện Làng Sông từng in báo Lời Thăm phát hành cả Đông Dương, lúc cực thịnh in đến 1000 đầu sách với 32.000 ấn phẩm. Đến năm 1922 số sách được in lên đến 63.185 với 3.407.000 trang giấy. Sau năm 1935 thì nhà in tiểu chủng viện Làng Sông ngừng hoạt động, một số máy in chuyển về nhà thờ Mằng Lăng, đến năm 1947 thì Việt Minh trưng dụng tất cả các máy in của nhà thờ và kể từ đây hoàn toàn chấm dứt một nhà in đầu tiên của nước Việt.


Nhà in 

Hơn 400 năm sau, một gã du tử người Việt quay về thăm lại nơi phôi thai chữ quốc ngữ và nơi in những quyển sách Việt đầu tiên mà lòng cảm khái. Nhìn những di ảnh và di vật thấy xúc động khôn tả, tưởng nhớ công lao người xưa đã dày công dụng trí để chế ra một ngôn ngữ mới mà ngày nay mình gọi là tiếng Việt. Bốn trăm năm so với lịch sử thì chẳng là bao nhưng thế sự thăng trầm đã làm mai một đi tất cả. Cảng Nước Mặn giờ đây đã lùi vào dĩ vãng, còn chăng là trong sách vở và trong tâm tưởng. Ngôi nhà tranh nơi chữ quớc ngữ hình thành thì hoang phế lau lách đìu hiu. Tiểu chủng viện Làng Sông còn đó nhưng nhà in cũng đã quên lãng lâu rồi, nhớ chăng chỉ là những kẻ còn hoài cổ, những người còn hướng vọng tiền nhân.

 

sách Việt ngữ

 

Tộc Việt thuở ban đầu chỉ khu trú vùng trung du bắc bộ, lần hồi xuống đồng bằng và tiệm tiến về phương nam. Tộc Việt thuở ban đầu dùng thổ ngữ gì thì chúng ta chưa biết được, mãi đến khi người Hán xăm lăng và đô hộ thì chúng ta sử dụng chữ Hán làm ngôn ngữ chính thức. Người Hán muốn dùng chữ và văn hóa Hán để đồng hóa chúng ta nhưng họ đã thất bại. Tộc Việt dùng chữ Hán hai ngàn năm nhưng chúng ta vẫn là chúng ta. Những nhân vật mà sử sách còn ghi nhận như: Nhâm Diêm, Tích Quang, Sĩ nhiếp… là những nhà cai trị và cũng là những người truyền bá chữ Hán cho tộc Việt. Trong quá trình sử dụng chữ Hán chúng ta có chế ra chữ Nôm nhưng xem ra không được coi trọng, chỉ có mỗi vua Quang Trung là người khuyến khích và công nhận chữ Nôm. Thời thế thay đổi, khi các giáo sĩ phương tây đến nước ta truyền giáo, họ đã dùng mẫu tự latinh để chế ra chữ Việt, tính từ sơ khởi cho đến ngày nay thì cũng đã bốn trăm năm rồi.

 

Tôi về thăm cái nôi sơ khai phát sanh chữ Việt và nhà in sách Việt đầu tiên của nước mình. Lòng bâng khuâng thương nhớ chi lạ, nhớ buổi đầu gian khó và công lao của các giáo sĩ tây phương, họ đã dùng năng lực trí huệ của mình để chế ra một loại ngôn ngữ mới cho người Việt. Tôi ngẩn ngơ trước hình ảnh những máy in và các ấn phẩm của nhà in trong tiểu chủng viện Làng Sông, những cuốn sách tiếng Việt đầu tiên của người Việt Nam. Dĩ vãng đã qua, nền xưa của ngôi nhà tranh nơi các giáo sĩ sống tạm  dùng đó làm nơi chế ra chữ Việt, giờ chỉ là một cái nên xi măng trơ trọi cô liêu giữa một xóm nghèo ở vùng quê. Người đời đã quên, phần lớn chúng ta không còn ai biết gì về nơi phôi thai tiếng Việt cũng như nhà in sách tiếng Việt đầu tiên. Nhà in trong tiểu chủng viện Làng Sông ngày nay không còn , còn chăng là những tấm ảnh chụp lại, những ấn phẩm đã ố vàng nằm im lìm trong tủ kiếng, họa hoằn lắm mới có khách vãng lai đến nhìn xem chốc lát rồi đi.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 10/2022)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.