Hôm nay,  

Mối Tình Tay Ba Giữa Rilke, Pasternak Và Tsvetaeva

31/08/202218:10:00(Xem: 1533)
letters
Tập thư Letters - Rainer Maria Rilke,
Boris Pasternak, và Marina Tsvetaeva


Trong quyển hồi ký Walk Through Walls của nghệ sĩ trình diễn Marina Abramovic, bà kể khi bà còn là một cô bé cô độc 15 tuổi, bà đã đọc ngấu nghiến quên ăn, tập thư Letters: Summer 1926, những trao đổi tay ba qua thư từ giữa Rainer Maria Rilke, Boris Pasternak, và Marina Tsvetaeva, và người này thì yêu đắm đuối hai người kia. Nhà thơ Joseph Brodsky cho rằng đây là một trong những chuyện tình đẹp và ly kỳ nhất trong văn học Nga.

Chuyện kể là trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất, cả Pasternak và Tsvetaeva đều sống ở Moscow, đều đã có tên tuổi trong vòng tròn văn chương và đều đã nghe thơ nhau trong những buổi đọc thơ nhưng cả hai không hề có ấn tượng gì với nhau.

Cho đến năm 1922, Pasternak bị chấn động khi đọc tập thơ Versts của Tsvetaeva (khi đó đã rời khỏi Moscow và sống lưu vong cùng chồng là Sergei Efron), và đã gửi cho Tsvetaeva một bức thư bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Từ đó bắt đầu nảy nở mối tình văn chương mãnh liệt qua thư từ giữa hai người. Cả hai đều trạc tuổi nhau (Pasternak khi ấy 32, Tsvetaeva 30) đều sinh trong một gia đình nhà giáo và đều có mẹ là nghệ sĩ piano, đều yêu tiếng Đức và văn học và âm nhạc Đức.

Hai nhà thơ trẻ tiếp tục trao đổi thư từ cho đến năm 1926 thì có sự xuất hiện của Rilke trong những bức thư. Tháng 12 năm 1925, Tây Âu cùng tham gia
chúc mừng sinh nhật lần thứ 50 của Rilke, khi đó đã là một tên tuổi lớn trong văn học Đức. (Những bức thư trong tập “Thư gửi chàng thi sĩ trẻ tuổi” được viết khi Rilke chỉ mới 27 tuổi). Trong những lời chúc mừng sinh nhật, có một bức thư của họa sĩ Leonid Pasternak, cha của Boris Pasternak, khi đó đã sống ở Berlin cùng với vợ và những người con gái của mình từ năm 1921. Bức thơ nhắc lại lần gặp gỡ giữa hai người trên một chuyến tàu ở Thụy Sĩ. Rilke trả lời bức thư và đó là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến những trao đổi tay ba qua thư từ này.

Rilke đã học, đọc, dịch sách, lẫn làm thơ bằng tiếng Nga, đã sang thăm Nga hai lần, gặp gỡ Tolstoy (qua sự giới thiệu của Leonid Pasternak) và xem nước Nga như một quê hương tâm linh của mình. Boris Pasternak khi 10 tuổi đã được gặp Rilke trong chuyến thăm Nga lần thứ hai của Rilke (cùng với Lou Andreas-Salomé, không ai khác hơn là người trong mộng trong mối tình một chiều tuyệt vọng của Nietzsche).

Trong những bức thư trước đó, cả Pasternak và Tsvetaeva đều nhắc đến Rilke, như là “hóa thân của thơ ca và đời sống tâm linh, một hình mẫu cần được tôn thờ”. Pasternak gợi ý Rilke viết thư cho Tsvetaeva và mối tình tay ba bắt đầu từ đó. Điều đáng nói là sau một thời gian thì Tsvetaeva bắt đầu cảm thấy tình yêu dành cho Rilke sâu đậm hơn cho Pasternak, viết thư cho Rilke và bày tỏ là bà muốn gặp ông ở Đức. Rilke nói: “Em không thể gặp anh được-Anh sắp chết”. Tsvetaeva trả lời: “Em cấm anh chết”. Rilke vẫn cứ chết vào tháng 12 năm 1926 và mối tình tay ba tan rã.

Tsvetaeva, khi đó đã quay về Moscow và Pasternak, đang sống ở Paris, tiếp tục viết sonnets cho nhau. Sau đó bà lại phải đi khỏi nước Nga và sang sống ở miền Nam nước Pháp (vì đã lấy một lính bạch vệ và đã bị cộng sản bắt giam), rồi hết tiền nên lại phải quay lại nước Nga. Bà và Pasternak quyết định gặp nhau, lần đầu tiên sau 5 năm liên lạc qua thư từ. Bà sẽ dừng ở ga Lyon ở Paris trên đường về nước. Tsvetaeva mang theo một chiếc Vali cũ của Nga, chứa quá nhiều áo quần đến nỗi nó bị rơi ra ngoài. Pasternak vội chạy đi và đem về một đoạn dây để buộc vali lại. Cả hai đều quá xúc động khi gặp nhau, họ ngồi yên đó, không nói nên lời, bởi “có nói cũng khôn cùng”. Pasternak nói ông phải đi mua thuốc lá, rồi không bao giờ quay lại, để Tsvetaeva ngồi đó chờ mãi cho lúc lên tàu.

Tsvetaeva đem theo chiếc vali cùng với sợi dây và trở về Nga. Về nước, chồng thì ở tù, bà túng thiếu. Bà đến Odessa, và trong lúc tuyệt vọng, viết thư cho hội nhà văn, hỏi xin làm lao công. Hội nhà văn trả lời là họ không cần. Bà về nhà, dùng chính sợi dây mà Pasternak đã dùng để sửa vali và treo cổ tự tử, ngày 31 tháng 8 năm 1941, cách đây 81 năm, khi mới 48 tuổi.

Phan Quỳnh Trâm

Tóm tắt từ hai quyển Rainer Maria Rilke, Boris Pasternak, Letters: Summer 1926 và Marina Tsvetaeva, Walk Through Walls: A Memoir, 2016.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lily, cô gái con người quản gia, thực sự không giây phút nào được nghỉ chân. Cô vừa mới đưa một quý ông vào gian phòng nhỏ phía sau văn phòng ở tầng trệt và giúp ông cởi áo khoác ngoài thì tiếng chuông cửa rè rè lại vang lên và cô lại phải tất tả bước dọc theo hành lang trống trải để đón một vị khách khác vào.
Nhân câu hỏi ông Đặng Minh Phương nêu ra, xin được đóng góp chút ý kiến khiêm nhượng vào chuyện này. Để giúp các bạn trẻ từ trước chưa có hoàn cảnh biết nhiều về mấy câu thơ trên, tôi xin được tóm lược câu chuyện từ đầu.
Chủ đề chính kết nối các truyện ngắn trong tuyển tập Beyond Borders (Vượt Qua Những Biên Giới) (nxb Da Màu Press) là khái niệm phức tạp và đa diện về biên giới. Như tựa của tuyển tập, mỗi câu chuyện hứa hẹn một khám phá đặc thù về khái niệm này. Biên giới là gì? Liệu đó có phải là một ranh giới hữu hình, như một hàng rào hay trạm kiểm soát phân chia các không gian địa lý và chủng tộc? Hay thuật ngữ này cũng đã khai triển/mở rộng để bao hàm những ranh giới hầu như vô hình và vô thức, như các cấu trúc ngôn ngữ, xã hội và văn hóa đã định hình bản sắc và mọi liên hệ cá nhân và tập thể? Có lẽ trong thế giới ngày càng kết nối chặt chẽ của chúng ta, biên giới hiện diện khắp nơi, cả hiển nhiên lẫn tiềm ẩn.
Từ khi du học ở Pháp vào đầu thập niên 1950’, trở về Việt Nam làm việc cho hãng Shell rồi sang Pháp làm việc cho đến khi về hưu và định cư cho đến nay… cả cuộc đời nhà văn Tiểu Tử gắn bó với tiếng Pháp nhưng khi cầm bút nơi xứ người với văn phong đặc biệt “miền Nam”, giản dị, ngắn gọn, chân chất, dí dỏm từ giọng văn và các mẩu đối thoại. Về tiểu sử cũng ngắn gọn: Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Tây Ninh. Ông là con trai duy nhứt của nhà giáo Võ Thành Cứ, giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. Dạy lý hoá trung học ở ngôi trường nầy niên khóa 1955-1956. Tháng 10/1956 làm việc cho hãng dầu Shell Việt Nam từ năm tháng 10 1956 đến 30/4/1975. Trong 3 năm (1975-1978) được trưng dụng làm việc cho hãng nầy. Trong thời gian đó, vượt biên 3 lần nhưng thất bại. Vượt biên cuối năm 1978. Định cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường mía của Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979-1982. Làm việc cho hãn
Hôm nay là ngày lễ Manman Aloumandia, ngày giỗ tổ tiên của người Haiti vào cuối tháng Chín. Nhà nào cũng chuẩn bị thức ăn truyền thống và hành lễ cảm tạ ông bà đã giữ gìn an toàn cho con cháu, nhất là sau vụ bị hàm oan, họ càng thấm thía sự bình yên hơn. Di dân, hầu hết là tha phương bất đắc dĩ, như phận gái đi lấy chồng, mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu.
Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến. Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.