Hôm nay,  

Việt Nam có nhân quyền không?

28/06/202221:13:00(Xem: 2003)

Chính luận

HumanRightVN


“Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, đó là điều quan trọng nhất là phát huy tối đa yếu tố con người.”

Ông Phạm Minh Chính, Thủ tướng CSVN tuyên bố như thế tại  Phiên toàn thể Diễn đàn cấp cao về cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tại Hà Nội ngày 6/12/2021. Qua câu nói này, rõ ràng ông Chính đã “duy vật” hơn nhiều người Cộng sản, vì con người, nhất là người dân Việt Nam, không thể chỉ sống bằng vật chất như loài cầm thú. Nhưng chính vì quan niệm hẹp hòi như vậy mà bao nhiêu năm nay, Việt Nam bị lên án đã chà đạp quyền con người, chỉ đứng sau lưng Trung Quốc ở Á Châu. Từ Liên hiệp Quốc (LHQ), Liên hiệp Châu Âu (European Union, EU) đến Hoa Kỳ và các Tổ chức theo dõi Nhân quyền và các quyền Tự do trên Thế giới đều đồng loạt đặt Việt Nam vào vị trí “rất thấp” trong bảng số  đánh giá trên Thế giới.

Chẳng hạn như Freedom House đã kê Việt Nam đứng hàng thứ 19 “không có tự do” trong đời sống chính trị và quyền tự do cá nhân. Trong khi Tổ chức theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) thường xuyên viết: “Việt Nam tiếp tục vi phạm các quyền dân sự và chính trị cơ bản một cách có hệ thống. Chính quyền, dưới chế độ cai trị độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, xiết chặt vòng kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm họp ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo. Các công đoàn độc lập hay bất kỳ một tổ chức, hội nhóm nào bị coi là có nguy cơ đối với sự độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản vẫn bị cấm thành lập và hoạt động. Nhà cầm quyền chặn đường truy cập tới một số trang mạng và tài khoản trên mạng xã hội, và gây sức ép, buộc các công ty viễn thông và mạng xã hội phải gỡ bỏ hoặc hạn chế các nội dung phê phán chính quyền hoặc đảng cầm quyền.

 

Những người lên tiếng phê phán đảng hoặc chính quyền phải đối mặt với nguy cơ bị công an đe dọa, sách nhiễu, cản trở việc đi lại, hành hung thân thể, bị câu lưu và bắt giữ tùy tiện, và bỏ tù. Công an giam giữ các nhà hoạt động chính trị hàng tháng trời mà không cho tiếp xúc với luật sư và thẩm vấn họ thô bạo. Các tòa án do đảng kiểm soát kết án các nhà hoạt động và blogger dựa trên các cáo buộc ngụy tạo về an ninh quốc gia.

Chính quyền Việt Nam có vẻ đã đạt được một số thành công trong việc chống dịch Covid-19. Sau khi áp dụng chính sách gắt gao về theo dõi tiếp xúc, xét nghiệm hàng loạt, tuyên truyền vệ sinh, đóng cửa biên giới sớm, giãn cách xã hội, bắt buộc cách ly tập trung, tính đến cuối năm 2020 Việt Nam chỉ ghi nhận khoảng hơn 1.000 ca nhiễm và 35 người chết. Tuy nhiên, các thành tích đó của Việt Nam phải đổi bằng cái giá là gia tăng vi phạm nhân quyền: hạn chế tự do biểu đạt; không bảo vệ được quyền dịch vụ xã hội và hỗ trợ của chính phủ.” (Trích Báo cáo phổ biến năm 2021).

Việt Nam hiện còn giam giữ khoảng từ 170 đến 300 người hoạt động dân chủ và nhân quyền trong nhiều nhà tù không có điều kiện sống đấy đủ và nghèo nàn về bảo vệ sức khỏe.

BẮT GIAM – KHỦNG BỐ TÙY TIỆN

Các tổ chức Quốc tế cũng ghi nhận Việt Nam Cộng sản có thông lệ bắt giam và cô lập “có thời hạn” những người bất đồng chính kiến trong các dịp hội họp hay lễ lạc quan trọng nhằm đề phòng đối kháng. Việt Nam cũng không hạn chế  bắt thường xuyên những người hợp tác với các Tổ chức quốc tế theo dõi tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Báo cáo thường niên năm 2020 của Hội đồng Nhân quyền LHQ tiết lộ: “Bà Nguyễn Xuân Mai, ông Phạm Tấn Hoàng Hải, ông Nguyễn Văn Thiết, ông Trần Ngọc Sương và bà Lương Thị Nở lq những người “từng tham gia các hội nghị quốc tế thường niên ở Bangkok về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng ở Đông Nam Á năm 2018. Họ bị cấm bay đến Bangkok từ ngày 28/10 – 1/11/2019, theo lệnh của Bộ Công an hoặc cơ quan công an địa phương. Ông Nguyễn Anh Phụng, người ban đầu dự định tham dự hội nghị, được cho là đã bị thẩm vấn tại nhà để biết thêm thông tin về hội nghị và cuối cùng ông đã không tham dự.”

Sau đó là trường hợp những nhà hoạt động: “Huỳnh Ngọc Trường (Công giáo), Nguyễn Phạm Ái Thùy (Công giáo), Ngô Thị Liên (Công giáo), Venerable Thích Thiện Phúc (Phật giáo), Nay Y Ni (người H'Mông theo Công giáo): Dự hội nghị về tự do tôn giáo năm 2019 tại Bangkok. Trong hội nghị, họ tham dự một khóa đào tạo do Văn phòng Cao ủy LHQ về Nhân quyền (OHCHR) tổ chức, về cách gửi khiếu nại theo các thủ tục đặc biệt.

 

Ngày 6/11/2019, khi trở lại sân bay quốc tế Đà Nẵng, ông Huỳnh Ngọc Trường, bà Nguyễn Thị Hoài Phương, bà Nguyễn Phạm Ái Thủy, bà Ngô Thị Liên và Đại đức Thích Thiện Phúc đã bị các nhân viên an ninh thẩm vấn riêng về việc họ tham gia hội nghị, bị hỏi nội dung hội nghị là gì, những người tổ chức và những người tham gia là ai, ai tài trợ cho họ đi và họ đã chia sẻ và đã làm gì tại hội nghị.

 

Ông Nay Y Ni được cho là đã bị thẩm vấn vào ngày 8-9/11 2019 khi trở về từ Bangkok, và chính quyền khám xét phòng của ông vào ngày 13/11/2019. Sau đó, vào ngày 18/11/2019, ông mất việc tại bệnh viện Bình Dương.

 

Ngày 14/11/2019, trong bối cảnh người dân Giáo xứ Cồn Dầu bị trục xuất theo lệnh ban hành năm 2011, nhiều công an đã bao vây nhà ông Huỳnh Ngọc Trường và bà Nguyễn Thị Hoài Phương. Lo sợ đây là đòn trả thù vì đã tham gia hội nghị năm 2019 ở Bangkok, họ chạy đến biên giới Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị và định chạy sang Lào. Tuy nhiên, ông Huỳnh Ngọc Trường đã bị công an tạm giữ và thẩm vấn trước khi vượt biên. Khi được một cảnh sát đưa đến một khách sạn gần đó để nghỉ qua đêm, ông đã bị một nhóm nam giới đánh ngất xỉu và chỉ dừng tay khi có cảnh sát can thiệp. Vào ngày 30 /11/2019, ông Huỳnh Ngọc Trường một lần nữa bị bắt ở cửa khẩu Mộc Bài khi ông đang trên một xe khách chạy tới biên giới Campuchia. Ông bị thẩm vấn trong mười hai giờ về các hoạt động của ông nhằm bảo vệ tự do tôn giáo của giáo dân và về hội nghị năm 2019 tại Bangkok.”

 

EU – NHÂN QUYỀN

 

Trong khi đó, trong báo cáo phổ biện đâu năm 2021, Nghị viện Châu Âu cũng bất bình về tình trạng bắt giữ tùy tiện những người bất đồng chính kiến và vi phạm nhân quyền của chính quyền Việt Nam. Báo cáo nói rõ: “Tôn trọng nhân quyền là tiêu chí hàng đầu của mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hiệp Châu Âu, và là yếu tố quan trọng cho Thỏa hiệp Thương mại giữa hai bên.”

Trong khi đó Amnesty International (AI, Ân xá Quốc tế, ÂXQT) cũng báo cáo: “Một cuộc điều tra mới của Ân xá Quốc tế vừa xác định một chiến dịch tấn công bằng phần mềm gián điệp nhắm vào những người bảo vệ nhân quyền (HRDs) Việt Nam từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 11 năm 2020.”

Báo cáo viết: “Phòng Nghiên cứu An ninh của Ân xá Quốc tế cho rằng các cuộc tấn công này là do một nhóm hacker có tên là Ocean Lotus thực hiện. Nhóm này hoạt động từ năm 2014, chuyên nhắm vào các công ty tư nhân và HRDs.

 

Phòng Nghiên cứu An Ninh của Ân xá Quốc tế đã điều tra và xác định những vụ tấn công bằng phần mềm gián điệp này là bằng chứng mới đây nhất về tình trạng đàn áp tự do biểu đạt tại Việt Nam và chống lại các nhà hoạt động Việt Nam tại nước ngoài.

 

Lịch sử các cuộc đàn áp trên không gian mạng ở Việt Nam

 

Nhân quyền đang ngày càng bị vi phạm cả ngoại tuyến và trực tuyến ở Việt Nam. Trong suốt 15 năm qua, tình trạng đàn áp liên quan đến các hoạt động trực tuyến đã gia tăng đáng kể ở Việt Nam, dẫn tới một làn sóng quấy rối, đe dọa, hành hung, và truy tố.

 

Ân xá Quốc tế đã ghi nhận kể từ năm 2006 nhiều trường hợp bắt giam và truy tố các nhà bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam để trả đũa việc họ biểu đạt trên mạng. Cùng năm đó, cựu tù nhân lương tâm Trương Quốc Huy  bị bắt giữ tại một internet café ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhiều nhà hoạt động và blogger đã bị kết án vì tội “tuyên truyền chống Nhà nước”. Blogger bảo vệ nhân quyền Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm) đã bị kết án 10 năm tù vào tháng 6 năm 2017 với tội danh này.”

 

Bà Quỳnh đã bị ép phải rời Việt Nam đi tị nạn ở Hoa Kỳ ngày 17 tháng 10 năm 2018, cùng mẹ và hai con.

 

Vẫn theo ÂXQT thì: “Các nhà hoạt động và các blogger cũng phải thường xuyên đối mặt với những vụ hành hung của các quan chức hay những kẻ côn đồ có liên quan tới chính phủ. Cảnh sát đặt các nhà hoạt động trong tình trạng quản thúc tại gia hoặc bị giam giữ một thời gian ngắn để ngăn cản họ không được tham gia vào các sự kiện công cộng. Chính phủ cũng sử dụng lệnh cấm đi lại để ngăn cản các nhà hoạt động và những người bảo vệ nhân quyền đi ra nước ngoài và tham gia các hoạt động với cộng đồng quốc tế.

 

Vào tháng 12 năm 2020, Ân xá Quốc tế đã công bố báo cáo “Hãy để chúng tôi thở”, nói về tình trạng hình sự hóa, quấy rối trực tuyến và các vụ hành hung lan rộng mà các nhà hoạt động và bloggers phải đối mặt, ngoài ra, báo cáo còn cho thấy sự gia tăng về số lượng người bị giam giữ vì biểu đạt ôn hoà trên mạng. Ân xá Quốc tế cũng đã chỉ ra tình trạng đồng lõa ngày càng tăng của các công ty công nghệ khổng lồ như Facebook và Google với chế độ kiểm duyệt hà khắc của chính quyền Việt Nam, mà theo đó bất cứ biểu đạt bất đồng ôn hòa nào cũng đều có thể bị ngăn chặn hoặc hạn chế.

Cuối cùng ÂXQT kết luận: “Các nhà hoạt động và HRDs bị bỏ tù, sách nhiễu, tấn công và bị kiểm duyệt đến mức phải buộc im tiếng bỡi các bộ luật mơ hồ và có phạm vi rất rộng vốn không tuân thủ các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Vào tháng 1 năm 2019,bộ luật gây nhiều tranh cãi, Luật An ninh Mạng  bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam, bộ luật này cho phép chính phủ có quyền lực rộng lớn trong việc hạn chế quyền tự do trên mạng, buộc các công ty công nghệ phải giao nộp một lượng dữ liệu rất lớn và kiểm duyệt nội dung của người dùng.”

 

Nên biết Việt Nam đã tổ chức và huấn luyện 10,000 Quân nhân có trình độ Internet chuyên môn cao để tham gia lực lượng “chiến tranh mạng”  bảo vệ Đảng và Chế độ. Ngoài ra nhà nước Việt Nam còn sử dụng cả Quân đội và Công an làm công tác “bảo vệ chính trị nội bộ” để bảo vệ an ninh, đề phòng các hoạt động nổi dậy và thành lập đảng đối lập.

TÔN GIÁO VẪN BỊ KIỂM SOÁT

Về những vi phạm quyền Tự do tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam, Uỷ Ban Tự do Tôn giáo Hoa Kỳ (United States Commission on International Religious Freedom, USCIRF) đã đề nghị Chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (Country of Particular Concern, CPC) vì những vi phạm một cách có hệ thống, liên tục và nghiêm trọng đối với tự do tôn giáo.



Các khuyến nghị của USCIRF được ghi trong Báo cáo về Tự do Tôn giáo năm 2022 vào ngày 25/4/2022. Trong buổi họp báo công bố bản báo cáo này, khi trả lời các câu hỏi của báo chí về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, USCIRF đề cập đến: “Luật Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2018, quan ngại rằng luật này cho phép sự sách nhiễu đối với lãnh đạo tôn giáo và những người thuộc cộng đồng miền núi ở Việt Nam, bao gồm người Thượng, người H'mông và các nhóm sắc tộc khác đặc biệt dễ bị tổn thương.

 

USCIRF cũng nêu lên tình trạng bắt bớ nhiều người đấu tranh cho tự do tôn giáo, hoặc bị bỏ tù chỉ vỉ niềm tin tôn giáo của mình. Điển hình là trường hợp của tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển, người đang chịu án 11 năm tù giam vì tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.
 
Ở miền Tây bắc Việt Nam, nhà cầm quyên đã tìm mọi cách quấy rối, ngăn chặn và đồi xử tàn tệ với các nhóm theo đạo Tin lành do ông Dương Văn Minh, người dân tộc Hmong xây dựng vì ông không chịu gia nhập phe Tin lành nhà nước.

 

Vì vậy, USCIRF đã đưa ra một số khuyến nghị dành cho Chính phủ Hoa kỳ nhằm cải thiện, thúc đẩy tự do tôn giáo ở Việt Nam. Cụ thể như: “Tham gia cùng Chính phủ Việt Nam, các nhóm xã hội dân sự và giới chuyên môn nhằm thúc đẩy việc sửa đổi Luật Tín ngưỡng Tôn giáo và các Nghị định thi hành Luật, để phù hợp vi các tiêu chuẩn quốc tế; Chỉ đạo Phái đoàn Hoa Kỳ tại Việt Nam chú ý và và giám sát tình trạng của các tù nhân lương tâm về tôn giáo và vận động, đảm bảo quyền lợi trong tù và trả tự do cho họ; Quốc hội Hoa Kỳ nên ủng hộ luật liên quan đến tự do tôn giáo ở Việt Nam, chẳng hạn như Đạo luật Nhân quyền Việt Nam.” (Tin của RFA, Radio Free Asia).

VIỆT NAM PHẢN ỨNG

Trước những tố cáo minh bạch của Quốc tế, chính phủ Việt Nam vẫn gọi đó là “Thủ đoạn xuyên tạc việc thực hiện quyền tự do tôn giáo của các thế lực thù địch.”

 

Bài phản biện của Học viện Chính trị khu III, ngày 26/12/2021 viết: “Thời gian qua, các thế lực cực đoan thường xuyên lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong đó, các thủ đoạn chính thường được sử dụng gồm:

 

“Một là, đưa ra các báo cáo, phúc trình có nội dung sai lệch, không phản ánh  đúng thực tế về vi ệc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam. Liên tục những năm qua, một số tổ chức thiếu thiện chí ở Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) đã tổ chức những cuộc hội thảo, họp báo, điều trần, ban hành nghị quyết, các bản phúc trình sai sự thật, bóp méo tình hình nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam, mà đặc biệt là tại các vùng có đông đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống. Một số cơ quan, tổ chức như Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF), Nghị viện châu Âu, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá Quốc tế (AI)... đã tổ chức nhiều phái đoàn vào Việt Nam và đi đến các vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ nắm tình hình về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo. Tuy nhiên, những nội dung mà các tổ chức này phản ánh rất thiếu thiện chí, bóp méo sự thật về tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung và ở vùng đồng bào các DTTS nước ta nói riêng.”

Chi tiết hơn, bài báo lên án: “Các đối tượng thù địch đưa ra các luận điệu cho rằng, nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề dân tộc, tôn giáo không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền con người. Thậm chí, họ còn trắng trợn xuyên tạc Luật Tín ngưỡng, tôn giáo “là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”, “tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”… Không dừng lại ở đó, các đối tượng này còn rêu rao Việt Nam đề ra chính sách pháp luật nhưng trên thực tế không thực hiện.”

Không chỉ có vậy, nhà nước CSVN còn “kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận”, trong đó có Giáo hội Công giáo. Nhưng dưới con mắt cú vọ và thái độ lươn lẹo của Công an thì: “Những âm mưu thâm độc về chính trị của các thế lực thù địch vẫn luôn ẩn nấp sau ngọn cờ tôn giáo. Tôn giáo trở thành phương tiện, công cụ để can thiệp vào tình hình nội bộ của nước khác. Đối với Việt Nam, các thế lực cực đoan, chống đối luôn tìm mọi thủ đoạn để tách rời tôn giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, từ đó để dễ dàng lợi dụng các tôn giáo vào những mục đích chống phá.”

Nhưng các Tôn giáo lấy gì để chống phá đảng cầm quyền có quân đội và công an bảo vệ ? Lập luận này chẳng qua chỉ để che đậy một điều đang diễn ra ở Việt Nam là từ bao năm nay, người có tín ngưỡng và tôn giáo luôn luôn là đối tượng bị theo dõi và kìm kẹp vì người dân đã tin vào  giáo hơn tuyên truyền vô thần của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.

Do đó, không ngạc nhiên khi thấy bài viết của Học viện Chính trị khu III đã tìm cách đánh lận con đen để vu cáo : “Thực tế cho thấy, việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây thường xuyên tổ chức các cuộc điều trần về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ nhằm mục đích tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, từ đó thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” làm thay đổi bản chất của chế độ, đưa Việt Nam vào sự lệ thuộc.”

Để chính rị hóa sự việc nhằm tạo lý do đàn áp, bài đã vu cáo: “Các thế lực thù địch, chống đối âm mưu hình thành các tổ chức chính trị đối lập dưới vỏ bọc tôn giáo, đặc biệt là tại các vùng dân tộc thiểu số của nước ta như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ… làm bình phong để tập hợp, thu hút lực lượng tham gia.”

Học viện Chính trị khu III, đặt trụ sở ở Đà Nẵng, tự vẽ rằng: “Có thể thấy, gần đây, các đối tượng ráo riết tiến hành các hoạt động này ở những địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ; thực hiện ý đồ “tôn giáo hóa vùng DTTS” (Dân tộc thiểu số). Đáng chú ý, các thế lực này đã tuyên truyền, lôi kéo lập ra một số hình thức “tôn giáo” riêng cho người dân tộc thiểu số như “Phật giáo riêng của người Khơme”; “Tin Lành Đềga” ở Tây Nguyên; “Tin Lành riêng của người Mông”. Một số cá nhân, tổ chức phản động người DTTS lưu vong được sự hỗ trợ của Mỹ và các nước phương Tây liên tục có những hoạt động “đấu tranh” tôn giáo, nhân quyền đối với Việt Nam, thực hiện mưu đồ quốc tế hóa vấn đề “quyền của người bản địa” gắn với vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền nhằm tạo sức ép từ bên ngoài và kích động chống đối chính quyền từ bên trong.”

Như thường lệ, ngoài Hoa Kỳ, bài viết không quên ràng buộc hành động tiếp tay của người Việt lưu vong, theo đó cho rằng: “Các tổ chức phản động lưu vong đã tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, ủng hộ cái gọi là “tiếng nói đấu tranh đòi dân chủ”. Các đối tượng cơ hội chính trị trong nước cấu kết với “Đảng Cấp tiến xuyên quốc gia” (TRP) đưa tổ chức “Quỹ người Thượng” do Ksor Kok thành lập đến các diễn đàn của Liên Hợp Quốc vu cáo, phản đối Việt Nam “đàn áp người Thượng”… Bên cạnh đó, lực lượng chống đối người Chăm đang lưu vong tại Hoa Kỳ và Pháp lập ra các tổ chức như: “Văn phòng Chămpa quốc tế - IOC”, “Liên minh người Chăm tị nạn tại Hoa Kỳ”, “Cộng đồng Muslim Chămpa” để thực hiện các hoạt động chống phá.”

 

Để phô trương, bài báo khoe: “Cùng với công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước, tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua có sự phục hồi, phát triển mạnh mẽ. Nếu như trước năm 1986, ở Việt Nam chỉ có 6 tôn giáo, 3 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận thì từ năm 2003, đã có 15 tổ chức tôn giáo thuộc 6 tôn giáo đủ điều kiện để được Nhà nước đã công nhận, với khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến năm 2020, Nhà nước đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước8. Việc nhiều tôn giáo và tổ chức tôn giáo được công nhận một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, là minh chứng rõ nét khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.”

 

Về chức sắc, bài viết cũng khoe thành tích: “Năm 1990, nước ta có khoảng 38.000 chức sắc, nhà tu hành, đến nay tăng lên 61.200 chức sắc, 147.000 chức việc (tổng số chức sắc, chức việc khoảng 208.300 người), trong đó tăng nhiều nhất là chức sắc của Phật giáo và của đạo Tin Lành 9. Nếu như trước năm 2003, trung bình mỗi năm có khoảng 7.000 lượt người tốt nghiệp các khóa đào tạo chức sắc do các tôn giáo tổ chức, thì từ năm 2003 đến nay, trung bình mỗi năm có khoảng 15.000 lượt người. Đặc biệt, hiện nay số cơ sở đào tạo của tôn giáo so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, lên đến 56 cơ sở.”

Nhưng ai mà không biết, công việc chọn nhân sự như tuyển sinh, phong chức và thuyên chuyển là những vấn đề nội bộ thuộc thẩm quyền các Tôn giáo, nhưng nhà nước đã nhúng tay kiểm tra lý lịch và xen vào việc lựa chọn, nhất là đối với Giáo hội Công giáo.

Vậy mà, Học viện Chính trị khu vực III vẫn cảng cổ ra cãi: “Đối với các luận điệu vu cáo rằng, Việt Nam có các hoạt động đàn áp tôn giáo, cấm đoán các tổ chức tôn giáo hoạt động, có thể thấy đây là những vu cáo vô căn cứ, không có cơ sở.”

Các báo khác như Công an Nhân dân và Lý luận Chính trị & Truyền thông cũng tát nước theo mưa cho rằng tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền và tự do  Tốn giáo: “ Đều phản ánh sai lệch, thiếu khách quan, xuyên tạc thực tế về vấn đề nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam...”

Thủ tướng Việt Nam, Phạm Minh Chính cũng đã nói: “Tôi sẵn sàng đối thoại bất cứ ai trên thế giới về kinh tế Việt Nam, về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

 

Chúng ta cởi mở, chân thành để làm việc. Khi hợp tác với nhau thì lợi ích hài hoà mà rủi ro phải cùng nhau chia sẻ.”

Ông Chính nói vung xích chó như thế với người Mỹ hôm 12/05/2022 tại Hoa Thịnh Đốn, nhưng lại không sẵn sàng đối thoại với Cộng đồng người Việt ở Mỹ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Hành động tránh mặt này, cũng giống như tất cả những Lãnh đạo Việt Nam thăm Hoa Kỳ trước đây gồm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang và hai Thủ tướng Phan Văn Khài và Nguyễn Tấn Dũng.
 
Nhưng tại sao nhà cấm quyền CSVN lại chỉ muốn nói chuyện phải trái về nhân quyền và tôn giáo với người nước ngoài mà lại tránh không đối thoại với người Việt Nam trong và ngoài nước.

Họ ngại gì, nếu không phải lo bị dồn vào chân tường nên mỗi khi bị Quốc tế lên án, Việt Nam đã giẫy lên như đỉa phải vôi.

Phạm Trần

 (06/022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.