Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Cung Tích Biền Điên Tỉnh Giữa “Một Thời Nên Vắng Mặt”

16/12/202120:13:00(Xem: 2962)

Pic 9 sách CTBTôi có một kho tàng sống qua mấy thời kỳ. Chỗ giáp ranh của thực hư, chính tà. Nửa tỉnh nửa điên...”  – Cung Tích Biền.



Trong tiết đông giá rét, mọi người đang chờ đón Giáng Sinh năm 2021, Quận Cam cũng hân hoan chào mừng một đứa con tinh thần mới ra đời. Ấp ủ và cưu mang tác phẩm tinh thần này suốt thời gian sống tại hải ngoại, nhà văn Cung Tích Biền cuối cùng đã giới thiệu đến các độc giả, tác phẩm "Một thời nên vắng mặt" của mình, một chiều cuối năm tại Coffee Factory.

Gần 60 bạn hữu thân quen của ông đến dự, ngồi chật kín quán cà phê, phả vào không gian thơ mộng một bầu không khí thân mật và ấm cúng. Đây là lần ra mắt sách thứ nhì sau lần ra mắt trước cách đây 2 tháng. Lần trước ông giới thiệu 5 cuốn sách và lần này là cuốn Tân Truyện được viết trong 5 năm ông sống tại Hoa Kỳ. 

 

Hiện diện trong buổi RMS có nhiều văn nghệ sĩ như: Trịnh Y Thư, Tô Đăng Khoa, Lê Lạc Giao, Thuận Huỳnh, Trương Đình Uyên, Nguyễn Đình Trí, Phùng Minh Tiến, Vũ Hoàng Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Thanh Lương, Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Thơ Thơ, Hồ Như, Nguyễn Đình Thuần, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Cao Bá Minh, Nina Hòa Bình, Phan Tấn Hải, Nguyễn Thanh Huy, Phạm Phú Minh, Thành Tôn, ÔB Mai Tất Đắc, Vương Trùng Dương, Lê Phước Bốn, Đinh Quang Anh Thái, Đinh Xuân Quân…


Trong phần giới thiệu tác giả, nhà văn Tô Đăng Khoa giữ vai trò MC đã mời Nhà văn Phạm Xuân Đài (Phạm Phú Minh) lên phát biểu.  Ông chia sẻ với mọi người về mối thâm giao ông có cùng tác giả. "Thân phụ của Phạm Xuân Đài là thầy giáo của Cung Tích Biền từ thời cắp sách. Ông cụ kể rằng Cung Tích Biền đã lộ tài văn chương từ rất sớm. Do đó CTB và PXĐ trên phương diện tinh thần là hai anh em. Ông nhớ lại thời đó nhà văn Cung Tích Biền đã nổi tiếng từ thập niên 1960. Lúc ấy báo chí nở rộ. Một trong số các nhà văn ăn khách viết truyện dài cho các báo là Cung Tích Biền. Mỗi buổi sáng CTB vào quán cà phê ngồi viết phơi-ơ-tông  (feuilleton) truyện dài cho 5,6 tờ nhật báo. Ông cũng có vài nhận xét về  cách viết của CTB đổi khác theo mỗi thời kỳ. Nhất là cuốn Tân Truyện này, giống như một cái gì để lâu bị dồn nén, giờ có dịp bột phát. Văn phong nó dễ sợ lắm, khiến người đọc phải suy nghĩ khi đọc, vì nó quá súc tích mà lại cô đọng từng câu, từng chữ. Sự uẩn ức nung nấu trong lòng, tạo nên một văn phong CTB mới và khác."

 

Kế đó, Nhà báo Vương Trùng Dương cũng lên kể về những kỷ niệm xưa với Cung Tích Biền. Ngày đó ông là huynh trưởng, CTB là bạn của chị ông và tất cả cùng sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử. Hai người là đồng hương cùng quê ở Quảng Nam.

 

Sau cùng Nhà văn CTB đã cảm ơn các bằng hữu bấy lâu thương mến và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian qua. Ông cũng không quên cám ơn người vợ yêu thương, Hoàng Thị Kim, đã thúc đẩy và chăm lo tất cả mọi thứ cho ông. Nhờ bà mà các tác phẩm của ông mới có mặt cùng độc giả trong khi ông chỉ biết viết. Bà cũng là tác giả của bức tranh bìa in trên Tân Truyện "Một thời nên vắng mặt". Ông cũng kể sơ về sự ngạc nhiên của ông với tục "Ra mắt sách" ở hải ngoại. Nó giống như người ta ăn thôi nôi của một đứa bé vậy. Ở Việt Nam, ông không được in sách đành in chui và không xin giấy phép của nhà nước vì nếu in họ sẽ cắt bỏ hết mà còn bị bắt nữa. Viết ở Việt Nam cực kỳ khó, ông phải thành lập nhà xuất bản Một Mình, có nghĩa là một mình, mình làm tất cả, và mỗi lần chỉ in được 40 cuốn. Ông nhấn mạnh thực ra mục đích hôm nay ngoài ra mắt sách, ông mong bạn bè được họp mặt, trò chuyện vui vầy với nhau là chính. Quả vậy chiều hôm ấy buổi RMS kéo dài đến 8, 9 giờ tối với phần trò chuyện, cùng đàn hát cho nhau nghe thật vui và sôi động.

 

Sau đây là phần trích dẫn của các nhà văn, nhà phê bình đã đọc và nhận xét khi đọc các tác phẩm của nhà văn Cung Tích Biền.

 

Nhà văn Huỳnh Ngọc Chiến đã tâm sự trên trang mạng của mình như sau:

Chính sự lao động thầm lặng và những suy tư sâu sắc của nhà văn Cung Tích Biền về lịch sử, về thời đại đã khiến tôi thêm ngạc nhiên và trân trọng. Các truyện ngắn của anh như gắn liền với cuộc sống nổi chìm cùng bao nỗi nhục vinh của cái xã hội mà anh đã sinh ra, lớn lên, rồi trôi nổi theo vận mệnh của lịch sử đầy biến động. Tôi vẫn thích lối văn kể chuyện kiệm lời, pha lẫn chút bình thản đến lạnh lùng, hài hước mà cay đắng, hờ hững mà quặn đau, trong các truyện ngắn của anh. Tôi muốn đọc các truyện ngắn của anh, từ tác phẩm đầu tay cho đến hôm nay, như một dấu ấn để tôi nhìn lại dòng chảy của một thời đại, mà trong đó tôi cũng đã sống, đã trăn trở. Đọc lại truyện ngắn của Cung Tích Biền, tôi thêm hiểu rằng truyện ngắn của anh không phải loại truyện chỉ đọc một lần. Nó mang tham vọng muốn chuyển tải những suy tư thầm lặng, những trăn trở của anh về lịch sử, về đất nước, về văn hóa qua những lớp vỏ ngôn ngữ đa tầng đa nghĩa mang tính dụ ngôn.


Nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh đã nhận xét về CTB khi đọc ông.

 

– Trong các sáng tác khi có thể và không nhiều, ngọn bút của ông mang nặng tính nhân bản và không pha hận thù, nếu có chăng là suy tư, hài hước tình đời, là nhắc nhở để tránh, để khỏi... Dùng ẩn dụ, ví von xa xôi, xa xưa và không gian khác, lạ lẫm thay vì hiện thực dễ dàng thấy sao nói vậy. Đề tài thời nhiễu loạn, “gió chướng”, do đó không hề thiếu, quan điểm và phê phán ông cũng không thiếu, nhưng biến thành con-chữ và đến được với người đọc là vấn nạn mà một nhà văn có bản lãnh như Cung Tích Biển không thể không đắn đo. Đó có lẽ là lý do khiến những sáng tác hiếm hoi của ông sau 1975 khi còn ở lại trong nước khá cô đọng, kiệm lời, không thừa chữ, không phải lý lẽ cho ra lẽ, nhưng từ khi ông định cư ở Hoa-Kỳ, hết “kiểm duyệt”, hết phải “sống trong phòng đợi”, thì ngòi bút ông như ngựa mất cương, tha thiết hơn, dài hơi hơn và phê phán triệt để hơn.

 

Nhà thơ Trịnh Y Thư phân tích cặn kẽ văn phong CTB khi đọc cuốn "Xứ động vật".


– Đọc Xứ động vật của nhà văn Cung Tích Biền, người đọc không thể không bàng hoàng, kinh động vì những trang viết khốc liệt như được viết từ nỗi đau xé ruột và lòng phẫn nộ tràn ứ, đầy dâng người đọc không hề tìm thấy một dấu vết hạnh phúc nhân sinh hoặc một nụ cười vui tươi nào, mà chỉ bắt gặp toàn những đắng cay tủi nhục và đau đớn ê chề. Bằng giọng văn trần trụi cảm xúc, phối hợp với những biện pháp nghịch dị trong văn chương, nhà văn đã rạch toác những vết ung nhọt khiếp hãi của xã hội đương đại trên đất nước quê hương ông từ thời hậu chiến cho đến tận bây giờ sau gần nửa thế kỉ thống nhất. Ông đã không ngần ngại gọi đấy là Xứ động vật hay một xứ sở Toàn-Chuồng. Trong mắt ông, cuộc sống lầm than, những sự việc phi lí, những cảnh huống oan khiên, những định mệnh oan nghiệt, những con người sống thừa, tất cả là kiếp sống con người hôm nay trên dải đất tang thương đó. Thật ra có phóng lớn, khuếch đại thế nào cũng chẳng diễn/miêu tả nỗi cái tình trạng của hoảng loạn, mạt thế, trong xã hội Việt Nam hiện nay. Nó nằm trên, và ngoài sức tưởng tượng lẫn hư cấu, trước bàn viết của một nhà văn. Việt Nam hôm nay, một xã hội tan rã là chưa đúng nghĩa, phải là một dân tộc tự hủy diệt.


Sách đã có bán trên BARNES & NOBLE. Ấn phí: US$20.00.

Có thể vào trang: https://www.barnesandnoble.com/

Rồi gõ chữ "cung tich bien" sẽ ra các tác phẩm của Cung Tích Biền.


– Trịnh Thanh Thủy

 

Hình ảnh trong buổi RMS (Ảnh Trịnh Thanh Thủy):



pic 1 CTB
Nhà văn Cung Tích Biền.

 

pic 2 ÔB CTB copy

ÔB Cung Tích Biền.



pic 3

Từ trái - (đứng): Thuận Huỳnh, Nguyễn Đình Thuần; ngồi: Đinh Quang Anh Thái,
Đặng Phú Phong, Thành Tôn.

pic 4
Từ trái: Thanh Huy, Phan Tấn Hải, ĐX Quang, Phùng Minh Tiến, Cindy Châu.



Pic 5 (2)

Từ trái: Tô Đăng Khoa, Trịnh Y Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Thanh Lương, Bà Vũ Hoàng Thư.

pic 6

Vương Trùng Dương, Hoàng Thị Kim, Đặng Thơ Thơ, Cung Tích Biền.

pic 7

Thân Trọng Mẫn, Phạm Quốc Bảo, ÔB Mai Tất Đắc.



pic 8 (2)
Phan Tấn Hải, Phạm Phú Minh, ĐX Quang, TNThiện.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
1)Tưởng niệm MC Phạm Phú Nam 2)Nhớ về cuộc di cư 1954. 3)Chiếu Phim Sài gòn trước 75 4)Chào đón minh tinh Kiều Chinh đến San Jose. Chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7 năm 2024 vừa qua chúng tôi đã có dịp nhân danh Viet Museum kịp thời trả những món nợ cho lịch sử. Số là anh chị em chúng tôi vẫn còn nhớ về chuyến di cư 1 triệu người từ Bắc vào Nam 70 năm xưa.
Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-1924 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris. Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.
Westminster, CA – Học Khu Westminster hân hoan tổ chức mừng lễ tốt nghiệp của các học sinh đầu tiên trong chương trình Song Ngữ Tiếng Việt (VDLI) tiên phong của học khu. Đây là khóa học sinh đầu tiên ra trường và các em sẽ được ghi nhận tại buổi lễ tốt nghiệp đặc biệt được tổ chức vào thứ Ba, ngày 28 tháng Năm, lúc 6:00 giờ chiều tại phòng Gymnasium của Trường Trung Cấp Warner (14171 Newland St, Westminster, CA 92683).
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.