Hôm nay,  

Gió Đã Xoay Chiều: Chính Sách Ngoại Giao Mới Của Đức

07/12/202115:07:00(Xem: 2427)



Bối cảnh

Kết qủa của cuộc bầu cử vào ngày 26/9/2011 là ba đảng Dân chủ Xã hội (SPD), Xanh (Grüne) và Dân chủ Tự do (FDP) chiếm được đa số tại Quốc hội. 

Để nắm quyền cai trị trong bốn năm tới, các đảng này phải thoả hiệp nhau để tìm ra một đường lối chung định hình cho một chính sách liên minh mới mà  báo chí gọi tắt theo một biểu tượng là “đèn hiệu giao thông”, bao gồm ba màu đỏ, (đảng SPD) xanh lá cây (đảng Xanh) và vàng (đảng FDP). 

Nói chung, đảng Xanh quan tâm đến việc bảo vệ môi trường, đảng FDP phát huy tự do cho nền kinh tế thị trường trong khi đảng SPD ưu tiên  bảo vệ công bình xã hội, quyền lợi công nhân và tôn trọng nhân quyền. 

Ngày 21/10, 22 nhóm chuyên gia của ba đảng bắt đầu các cuộc họp chuyên đề và đúc kết các dị biệt trong một văn bản chung quyết để thỏa thuận việc cầm quyền được gọi là Koalitionsvertrag (Hợp đồng Liên Minh), được mệnh danh là "Mehr Fortschritt wagen“ (Dám tạo ra nhiều tiến bộ). Kết quả này được trình bày trước công luận và báo chí vào ngày 26/11. 

Nội dung của Hợp đồng Liên Minh  là đem lại "một sự đổi mới toàn diện cho đất nước" trong "một sự khởi hành mới". Văn bản đưa ra một số "xác định sơ bộ" để giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, số hóa, đảm bảo thịnh vượng và gắn kết xã hội. 

Với 177 trang, ba đảng đề cập đến 9 chuyên đề. Các vấn đề “Đối ngoại, An ninh, Quốc phòng, Phát triển, Nhân quyền“ chỉ là một phần trong chuyên đề VII: “Trách nhiệm của Đức đối với châu Âu và thế giới.“

Tóm lược  

Nhìn chung, chính sách ngoại giao của Đức dựa trên sự liên tục và  nằm trong khuôn khổ của cơ quan Liên Âu. Với tư cách là thành viên quan trọng nhất, Đức có khả năng hành động với nhiều chủ quyền hơn. 

Sự cạnh tranh hệ thống với các  nước độc tài và đoàn kết chiến lược với các đối tác dân chủ cũng được đề cập. 

Trong bối cảnh này, chính sách đối ngoại của Đức  "hành động từ một nguồn duy nhất", bao gồm cả việc đệ trình một chiến lược an ninh quốc gia liên ngành, đó là một mô hình chiến lược mới. 

Tuy nhiên, việc thành lập một Hội đồng An ninh Quốc gia như đảng FDP đã dự kiến trong chương trình vận động tranh cử, không được đề ra trong kế hoạch.

Trong các vấn đề liên minh xuyên Đại Tây Dương, Hoa Kỳ sẽ là "trụ cột trung tâm" và "NATO cũng là một phần không thể thiếu của nền an ninh Đức." 

Vấn đề có thể tiên đoán là việc can thiệp tại Afghanistan sẽ được giải quyết tại Quốc hội. Việc mua các máy bay không người lái có vũ trang để bảo vệ quân đội mà SPD luôn chống lại trong chính phủ liên minh CDU-SPD, nay cũng đã được quyết định. Đảng FDP đã có ý đồng thuận và đảng Xanh không loại trừ việc trang bị vũ khí.

Việc đóng góp tài chánh quốc phòng trong khối NATO như thỏa thuận, theo định mức hai phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội, không được Đức đề cập trực tiếp, nhưng dự kiến đóng ba phần trăm cho "đầu tư trong hành động quốc tế" và do đó cũng được hiểu là hoàn thành "nghĩa vụ tham gia  NATO". Đó là một phạm vi chắc chắn sẽ còn gây tranh cải khi thảo luận cho việc chuẩn chi kinh phí  trong tương lai.

Vấn đề mà đảng SPD có những phản ứng mạnh mẽ trước đây là có nên tham gia về vũ khí hạt nhân không, đã được giải quyết: Đức sẽ mua sắm một loại máy bay chiến đấu sau đời Tornado, và Đức sẽ tiếp tục tham gia "khi nào mà loại vũ khí hạt nhân còn đóng một vai trò trong khái niệm chiến lược của NATO”.

Trong văn bản không đề cập đến  việc Nga cung cấp năng lượng cho Đức qua ống dẫn dầu trên biển Đông, Baltic Nord Stream 2, một chuyên đề bị đảng Xanh bác bỏ triệt để và đảng FDP còn hoài nghi, trong khi được đảng SPD ủng hộ hơn. 

Đối với Nga. Đức có nhiều chỉ trích và mong muốn hợp tác qua một cuộc đối thoại mang tính xây dựng "về các vấn đề của tương lai" và "trong việc vượt qua các thách thức toàn cầu". 

Vấn đề kêu gọi Nga cần phải "chấm dứt ngay lập tức các nỗ lực gây mất ổn định chống lại Ukraine, bạo lực ở miền đông Ukraine và sáp nhập Crimea bất hợp pháp" không được văn bản đề cập. Việc trì hoãn này có nghĩa là để dành cho công việc cụ thể của chính phủ, mà nó có thể sẽ gây ra các cuộc xung đột.

Bang giao Đức- Trung Quốc

(trích dịch từ nguyên tác Đức ngữ trong Koalitionsvertrag trang 157-158)

Đức muốn và phải định hình mối quan hệ với Trung Quốc trong những tầm vóc đối tác, cạnh tranh và mang tính đối thủ qua hệ thống. 

Trên cơ sở Luật Nhân quyền và Luật pháp Quốc tế hiện hành, Đức tìm kiếm sự hợp tác với Trung Quốc bất cứ khi nào có thể. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng tăng với Trung Quốc, Đức muốn có các quy tắc công bằng. 

Để có thể thực hiện các giá trị và lợi ích của mình trong cuộc cạnh tranh mang tính hệ thống với Trung Quốc, Đức cần có một chiến lược toàn diện về Trung Quốc trong khuôn khổ chính sách chung Liên Âu-Trung Quốc. Đức muốn tiếp tục các cuộc tham vấn liên chính phủ và làm cho châu Âu mạnh hơn.

Đức cố gắng phối hợp chặt chẽ trong khuôn khổ Xuyên Đại Tây Dương về một chính sách đốî với Trung Quốc và tìm kiếm sự hợp tác với các nước cùng quan điểm để giảm bớt sự phụ thuộc chiến lược. 

Kỳ vọng của Đức về chính sách đối ngoại của Trung Quốc là Trung Quốc sẽ đóng một vai trò có trách nhiệm đối với hòa bình và ổn định với các lân bang. 

Đức cam kết rằng các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông nên được giải quyết trên cơ sở Luật Biển quốc tế. Sự thay đổi hiện trạng ở eo biển Đài Loan chỉ có thể diễn ra theo một cách hòa bình và tương thuận. 

Trong khuôn khổ chính sách một Trung Quốc của Liên Âu, Đức ủng hộ sự tham gia trong các chuyên đề có liên quan Đài Loan dân chủ trong các tổ chức quốc tế. 



Đức đặt vấn đề rõ ràng về các vi phạm nhân quyền của Trung Quốc, đặc biệt là ở Tân Cương. Giá trị của nguyên tắc “một quốc gia - hai hệ thống” ở Hồng Kông phải được tái khẳng định.

Bang giao Đức-Ấn Độ-Thái Bình Dương

Dựa trên các chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Đức và Liên Âu, Đức ủng hộ một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở dựa trên các chuẩn mực toàn cầu và Luật Quốc tế. 

Đức muốn đạt được tiến bộ trong sự hợp tác, đặc biệt trong các lĩnh vực tăng cường chủ thuyết đa phương, tinh thần trọng pháp và dân chủ, bảo vệ khí hậu, thương mại và số hóa. 

Đức muốn cùng thúc đẩy đối thoại sâu rộng về hòa bình và an ninh ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đức muốn thúc đẩy quan hệ đối tác EU-ASEAN. 

Đức muốn nâng cấp cho Hội nghị Doanh nghiệp Đức-Châu Á-Thái Bình Dương về mặt chính trị.

Đức muốn mở rộng các mối quan hệ, bao gồm cả ở cấp quốc hội, với các đối tác có giá trị quan trọng như Úc, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc. 

Đức muốn bắt đầu có các cuộc tham vấn thường xuyên cấp chính phủ với Nhật Bản. 

Đức đặc biệt quan tâm đến việc làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ bằng cách thực hiện chương trình nghị sự cho quan hệ đối tác Ấn-Đức và quan hệ đối tác kết nối Liên Âu-Ấn Độ. 

Đức hỗ trợ cho những người đang và sẽ bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng cao. 

Đức muốn tích cực thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng theo tiêu chuẩn quốc tế có chất lượng cao. Sáng kiến Cổng toàn cầu của Liên Âu là một công cụ quan trọng trong vấn đề này,(hết trích dịch).

Bang giao Đức-Việt

Bang giao Đức-Việt không được đề cập trong lập trường của chính phủ mới, điều đó không có nghĩa là không quan trọng. Thực tế ngược lại, có nhiều chủ đề liên quan gián tiếp đến Việt Nam. 

Theo các tài liệu mới, Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Đức tại Đông Nam Á, kim ngạch thương mại hai nước đã tăng gấp đôi lên mức trên 10 tỷ USD, thương mại song phương tính đến tháng 8/2021 đạt hơn 7,2 tỷ USD, tăng 11,3 % so với cùng kỳ năm 2020. 

Có hơn 350 doanh nghiệp Đức đang đầu tư tại Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã đầu tư tại Đức 30 dự án với tổng số vốn 120 triệu USD.

Trong 30 năm qua, Đức đã cung cấp trên 2 tỷ USD cho Việt Nam trong các chương trình viện trợ phát triển kinh tế. 

Hiện nay, Đức xác định Việt Nam là Đối tác trong  Chiến lược hợp tác phát triển 2030 để Việt Nam phát triển bền vững, trước mắt là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp 4.0. 

Thành quả này là còn trong thời của bà Merkel. Chính phủ tương lai của Đức cũng sẽ tiếp tục khai thác và sẽ tạo ra một xung lực mới cho việc mở rộng hợp tác trong nhiều mặt giữa hai nước.

Việt Nam có tận dụng ưu thế này  không, còn phải cần thời gian theo dõi. Nhu cầu trước mắt là sau vụ Trịnh Xuân Thanh, Việt Nam nên thể hiện tinh thần trọng pháp và lễ độ ngoại giao trong thời đại văn minh.

Đức phê phán công khai và cứng rắn đường lối bành trướng của Bắc Kinh, đặc biệt là tranh chấp tại biển Đông và biển Hoa Đông. 

Đức báo động là bắt đầu quan tâm chặt chẻ hơn đến các vấn đề vi phạm nhân quyền tại Tân Cương, tương lai dân chủ cho Hồng Kông  và bảo vệ cho lãnh thổ của Đài Loan. Chủ trương này được hiểu là giờ đây gió đã xoay chiều và thời kỳ trọng thương trong kỷ nguyên Merkel đã kết thúc.

Giải thích sự thay đổi đường lối này một cách gián tiếp cũng có nghĩa là Đức sẽ ủng hộ cho Việt Nam theo đuổi một giải pháp hiếu hoà. Việt Nam có đủ can đảm để tận dụng các ưu thế này hay tiếp tục kiên trì trong im lặng với Trung Quốc, đó là vấn đề ý thức phản tỉnh về nội lực của Việt Nam.

Trong chiều hướng mới này, Đức cũng sẽ quan tâm đến các vấn đề tôn trọng nhân quyền, phát huy dân chủ và vẹn toàn lãnh thổ cho Việt Nam,  có nghĩa là, các phong trào xã hội dân sự trong và ngoài nước có một cơ hội mới để hợp tác với Đức. Các phương tiện truyền thông Đức sẽ bắt đầu mở rộng hơn so với thời của bà Merkel. Gần đây, bà Merkel đã thú nhận là ngây thơ và dè dặt với Trung Quốc, nhưng không nói rõ lý do tại sao bà lại nhẹ tay cho Việt Nam trong vụ Trịnh Xuân Thanh.

Vấn đề còn lại cho người Việt còn quan tâm đến công cuộc đấu tranh cho tương lai của Việt Nam là có tận dụng được lợi thế mới này tại Đức để mở rộng ngoại vận hay không, triển vọng này còn tùy vào việc phát huy năng lực nội tại và sự hồi phục của tình hình chung sau thảm hoạ COVID-19.  

Triển vọng

Chính phủ Đức mới lên ý thức rõ là phải cải cách toàn diện, nhưng không nên hy vọng có thể thực hiện được như trong chương trình đề ra. Có quá nhiều lý do để phải dè dặt cho tương lai. 

COVID-19 đang làm chết hơn 100.000 người và dịch bịnh còn lan rộng không biết đến chừng nào. Kinh tế không thể hồi phục nhanh vì kỷ thuật số của Đức tụt hậu so với trình độ phát triển chung của các nước công nghiệp khác. Thiên tai, bảo lụt và dịch bịnh làm cho chính quyền chỉ lo tung tiền cứu trợ khắp nơi, nợ công càng chồng chất cao hơn. Hậu qủa trực tiếp của khiếm hụt ngân sách làm cho lạm phát tăng và đời sống khó khăn. Làn sóng di dân ồ ạt là lý do chính cho phong trào bài ngoại gia tăng.

Dân chúng chống đối đủ kiếu làm phân hoá xã hội trầm trọng. Trở lực chính cho hồi phục là thị trường nhân dụng. Mức độ lão hoá dân số nhanh nên tình trạng thiếu nhân công khó giải quyết mà giới chuyên gia về tin học và nhân viên điều dưỡng y tế là khan hiếm. 

Tất cả các yếu tố này làm cho tình hình chung trong xã hội Đức không có gì là lạc quan.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.