Hôm nay,  

Buổi Chiều Đầu Thu Nghe Giới Thiệu Kịch Phẩm ‘Kẻ Phá Cầu’ Của Lữ Kiều Và Tiếng Hát Của Ca Sĩ Thu Vàng

26/09/202116:16:00(Xem: 1940)

Ke Pha Cau 1

 

Dường như từ đầu mùa dịch tới giờ tôi bị Cô Vít đẩy xa ra khỏi những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Miền Nam California. Nhưng chiều Thứ Bảy, ngày 25 tháng 9 năm 2021 tôi đã bị không khí sinh hoạt của buổi giới thiệu kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” của kịch tác gia Lữ Kiều và tiếng hát chinh phục lòng người của ca sĩ Thu Vàng lôi cuốn đến đỗi quên cả chuyện nàng Cô Vít vẫn còn quanh quẩn đâu đây.

Buổi giới thiệu kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” của Lữ Kiều và tuyển tập viết về Tiếng Hát Thu Vàng được tổ chức một cách ấm cúng và thân tình tại tư gia của nhà thơ Vũ Hoàng Thư ở Thành Phố Fountain Valley, Miền Nam California vào chiều Thứ Bảy, 25 tháng 9 năm 2021, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, gồm nhà văn Trúc Chi, nhà văn Cung Tích Biền, nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo, nhà thơ Trịnh Y Thư, nhà văn Tràm Cà Mau, nhà văn Zulu DC, nhà văn Phan Thanh Tâm, nhà văn Huy Văn Trương, nhà thơ Vũ Thị Hạnh, phu nhân của nhà văn quá cố Cao Xuân Huy là Bà Đỗ Thị Minh, v.v….

Ke Pha Cau 3
Mở đầu, nhà thơ Vũ Hoàng Thư trong tư cách là chủ nhà đã có lời chào đón các văn thi hữu đến dự. Anh cũng đã giới thiệu tuyển tập viết về Tiếng Hát Thu Vàng. Anh nói “Thu Vàng đã nức tiếng từ trong nước ra hải ngoại với nhạc Tiền Chiến.” Anh kể đã biết tiếng hát Thu Vàng qua trang mạng Nguyệt Mai và nhà thơ Khánh Minh. Từ đó anh đã nghe Thu Vàng hát qua các CD mà anh nhận được từ ca sĩ Thu Vàng gửi tặng. Anh nói, “Thu Vàng không phải là người dễ dãi trong nghệ thuật, cô chọn một con đường khó khăn và có đẳng cấp, nơi mà những lớp đàn chị danh tiếng đã để ấn tích rực rỡ như Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương, v.v… ở loại nhạc Tiền Chiến và thính phòng. Đó là chỗ hiếm quý giữa những lựa chọn kiểu mì ăn liền đang lan tràn ở Việt Nam…”

Nhà văn Trúc Chi nói ông là người nghe nhạc khó tánh vì “cái cảm của mình không hợp với người khác.” Ông nói Thu Vàng có tâm hồn về nhạc, có tấm lòng về nghệ thuật, mà một khi đã có tâm hồn và tấm lòng thì đã tới tầm cỡ nào đó của nghệ thuật. Ông nói “Thu Vàng đã tới đó rồi.”

Ke Pha Cau 4
Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo thì nhận định rằng tiếng hát Thu Vàng có được đặc điểm là có cá tính trong khi nhiều người hát chẳng có cá tính gì cả. Bởi vậy khi nghe tiếng hát Thu Vàng ông nói “bao nhiêu năm nay mới có giọng hát như vậy.” Ông nói Thu Vàng ở dưới chế độ cộng sản mấy chục năm mà vẫn giữ được tâm hồn yêu tự do và nghệ thuật. Ông còn khen Thu Vàng có điểm đặc biệt khác nữa là dù chị không phải là người Bắc nhưng phát âm rất chuẩn và đó cũng là yếu tố quan trọng làm nên tên tuổi của người ca sĩ. Cuối cùng ông nói tiếng hát Thu Vàng đã đi vào lòng người nghe.

Ca sĩ Thu Vàng nhân dịp này đã bày tỏ lòng cảm ơn đến quý anh chị em đã đến dự buổi giới thiệu này và các tác giả đã viết trong tuyển tập Tiếng Hát Thu Vàng đã được phát hành gần đây.

Ke Pha Cau 2
Nhưng có lẽ giây phút mà mọi người đều cảm thấy thoải mái nhất trong khung cảnh trời mới chớm thu chính là được nghe thêm lần nữa, và không biết bao nhiêu lần nữa cho đủ tiếng hát Thu Vàng. Chị đã hát liên tiếp ba nhạc phẩm: “Những Ngày Thơ Mộng” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ; “Trở Về Mái Nhà Xưa” và “Kỷ Niệm” cũng của nhạc sĩ Phạm Duy.

 

“Cho tôi lại ngày nào

Trăng lên bằng ngọn cau

Me tôi ngồi khâu áo bên cây đèn dầu hao

Cha tôi ngồi xem báo; Phố xá vắng hiu hiu

Trong đêm mùa khô ráo tôi nghe tiếng còi tàu

 

Cho tôi lại chiều hè, tôi đi giữa đường quê

Hai bên là hương lúa, xa xa là ngọn tre

Thấp thoáng vài con nghé,

Tiếng nước dưới chân đê

Tôi mê trời mây tía không nghe mẹ gọi về…”

 

Lời nhạc của ca khúc “Kỷ Niệm” được giọng ca truyền cảm của ca sĩ Thu Vàng rót vào lòng người nghe trong một chiều thu xa xứ như ngọn bấc thắp lên ký ức của tôi sống lại một quãng đời quá khứ trên miền đồng quê đất Việt.

Lời phát biểu của nhà văn Thân Trọng Mẫn giới thiệu kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” của kịch tác gia Lữ Kiều đã kéo tôi ra khỏi khung trời kỷ niệm của ký ức xa xưa.

Anh Thân Trọng Mẫn là em ruột của kịch tác gia Lữ Kiều, tức bác sĩ Thân Trọng Minh. Anh Mẫn nói rằng không khí kịch của Lữ Kiều khác với kịch thông thường. Anh cũng cho biết ở Việt Nam kịch của Lữ Kiều rất hiếm. Anh nhận định đọc kịch phẩm “Kẻ Phá Câu” của Lữ Kiều là cơ hội để nhìn lại mình trong thời gian đặc biệt trước năm 1975. Anh Mẫn nêu ra hai vở kịch “Kẻ Phá Cầu” và “Con Sâu Trong Mắt” để nói lên một vài sự thật liên quan đến cuộc chiến Việt Nam trước năm 1975 và tại sao Miền Nam đã thất thủ.

Anh kể lại chuyện trong vở kịch “Kẻ Phá Cầu” của Lữ Kiều về hình ảnh của người phụ nữ kiên cường chống lại người đàn ông đi theo cách mạng. Nhưng sau khi người đàn ông trở về thì được người phụ nữ này tha thứ. Anh Mẫn nói đó là tấm lòng nhân ái, nhân đạo của người Miền Nam và tình thương đó của người Miền Nam đã thua cái tàn ác của người cộng sản. Nhưng về mặt đạo đức và nhân bản làm người thì tình thương là bảo vật, là di sản quý giá nhất của nhân loại suốt mấy ngàn năm qua, trong khi cái ác lúc nào cũng bị nguyền rủa.

Vở kịch thứ hai trong “Kẻ Phá Cầu” của Lữ Kiều là “Con Sâu Trong Mắt” kể chuyện một người đàn ông là kẻ phản bội như trong vở kịch viết:

 

“NGƯỜI ĐÀN ÔNG (mơ màng)

Họ hỏi gì?

NGƯỜI TRẺ TUỔI

Tên kẻ phản bội.

NGƯỜI ĐÀN ÔNG (ngậm ngùi)

Kẻ phản bội!

NGƯỜI TRẺ TUỔI

Phải. Họ hỏi tên kẻ đã bán đứng anh em cho trại giam. Kẻ đã cho tin bọn giám thị để chúng phục kích những người đào thoát ngay miệng hầm, không kịp tẩu tán. Hắn là ai? Lúc bấy giờ tôi chưa định thần để nghĩ ra ai đã phản bội. Tôi hoàn toàn không biết những người ở lại ra sao?”

 

Anh Mẫn nói thêm rằng qua vở kịch “Con Sâu Trong Mắt” cho thấy tác giả Lữ Kiều đã tiên tri về kẻ phản bội là những người đã lợi dụng kháng chiến.

Nhân đây, anh Thân Trọng Mẫn đã giới thiệu nhà thơ Trịnh Y Thư là người phụ trách Nhà Xuất Bản Văn Học Press mà đã xuất bản cuốn “Kẻ Phá Cầu” phát biểu thêm về việc in kịch phẩm này.

Nhà thơ Trịnh Y Thư nói rằng lúc nhận sách thì anh “khá lúng túng,” trước khi xuất bản. Nhà thơ họ Trịnh cho biết anh đã có nói chuyện với tác giả Lữ Kiều và kịch tác gia Lữ Kiều tâm sự với anh rằng từ bao lâu nay ông đã dồn tâm tư vào tác phẩm này, nhưng ông không muốn xuất bản nó trong nước, ông chỉ muốn in ở hải ngoại. Nhà thơ Trịnh Y Thư nói đó là điều mà chúng ta nên trân quý.

Được mời phát biểu trong buổi giới thiệu kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” và tuyển tập viết về Tiếng Hát Thu Vàng, nhà văn Cung Tích Biền trước tiên cho biết kịch tác gia Lữ Kiều là bạn cũ của ông và cũng là bác sĩ nội khoa đã từng phục vụ trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975. Nhà văn Cung Tích Biền cũng nói rằng ông đã đọc một số kịch của Lữ Kiều trước năm 1975. Ông phân tích kịch có hai loại: kịch để diễn và kịch để đọc. Kịch của Lữ Kiều có thể diễn mà cũng có thể xem như “kịch văn học vì nó rất quý.”

Trong dịp này, nhà văn Cung Tích Biền cũng nói về Thu Vàng, với giọng ca hiếm có ngày nay. Ông nói rằng những giọng ca có thể thẩm thấu được ở lớp ca sĩ đã đi qua, thì Thu Vàng là người kế thừa những giọng ca đó.

bia-sach-tieng-hat-thu-vang
Đến đây, thì người tham dự buổi giới thiệu sách lại được thưởng thức tiếp tiếng hát mà nhà văn Cung Tích Biền nói là “giọng ca thẩm thấu,” với các nhạc phẩm “Tình Khúc Thứ Nhất” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, “Tình Mẹ” của Y Vân, một nhạc phẩm bất hủ mà bất cứ khi nào nghe qua tôi cũng thấy lòng mình mềm xuống vì suối nguồn tình yêu của mẹ còn dạt dào trong tim. Và bây giờ, ngoài kia nắng chiều thu nhợt nhạt trên cành cây ngọn cỏ, khi nghe ca sĩ Thu Vàng cất giọng truyền cảm để chuyên chở tình mẹ, lòng tôi lại càng da diết hơn bao giờ.

 

Thương con Mẹ hát câu êm đềm,

Ru lòng thơ ấu quản gì khi thức trắng đêm.

Bao năm nước mắt như suối nguồn.

Chảy vào tim con mái tóc trót đành đẫm sương.

 

Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu.

Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu.

Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu.

Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu.

 

Một tiết mục cuối của buổi sinh hoạt làm cho người tham dự thích thú là phần độc tấu guitar nhạc cổ điển của nhà thơ Trịnh Y Thư.

Tôi ra về sau buổi giới thiệu kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” của kịch tác gia Lữ Kiều và Tiếng Hát Thu Vàng khi nắng chiều đã tắt. Nhưng “Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu.”

Hinh bia sach Ke Pha Cau cua Lu Kieu
Tác phẩm “Kẻ Phá Cầu,” dày 280 trang, bìa màu, gồm 7 vở kịch: “Kẻ Phá Cầu,” “Con Sâu Trong Mắt,” “Nơi Đảo Xa Kia,” “Bọn Họ Bốn Người,” “Kẻ Đến Muộn,” “Những Người Đi Một Mình,” và “Nhân Vật Phụ.” Ngoài phần chính gồm 7 vở kịch, còn có các bài viết như “Lời Tựa” của Khuất Đẩu, và các bài viết và nhận định về kịch phẩm “Kẻ Phá Cầu” của Trần Hoài Thư, Nguyên Minh, Huyền Chiêu, Sâm Thương, Nguyễn Lệ Uyên, Mang Viên Long, Trần Lê Sơn Ý, và Nguyễn Thị Tịnh Thy.

Có thể nói đây là tác phẩm kịch rất hiếm thấy ở hải ngoại bấy lâu nay và đặc biệt lại được viết bởi một kịch tác gia nổi tiếng là Lữ Kiều. Vì vậy, đây là tác phẩm hiếm quý mà người yêu thích văn học nghệ thuật, đặc biệt bộ môn kịch nghệ khó lòng bỏ qua để tìm mua về thưởng thức những vở kịch hay chuyên chở nội dung không những mang tính sự thật lịch sử mà một thời đất nước đã trải qua, nhưng còn có giá trị văn chương nghệ thuật sâu sắc.

Độc giả có thể mua sách ở đây:

Sách đã có bán trên BARNES & NOBLE:

Giá: US$18.00

Xin bấm vào đường dẫn sau:

https://www.barnesandnoble.com/w/ke-pha-cau-lu-kieu/1140043981?ean=9781668532126

Keyword: Ke pha cau, kich lu kieu

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn có thể gọi Arnaud Nazare-Aga là một nhà điêu khắc, hay một lạt ma vào đời, hay đơn giản, là một nghệ sĩ và là một cư sĩ. Một thời anh đã ngồi trong tu viện để tạc các pho tượng Phật, tượng Bồ Tát, các trụ điêu khắc, và rồi anh rời tu viện để bước vào đời, trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng trong thế giới tượng hình. Nói kiểu tóm gọn theo văn phong báo chí thường gặp là: một nghệ sĩ Phật tử người Pháp. Nhưng cuộc đời anh đầy những cơ duyên kỳ lạ. Bài viết này tổng hợp từ nhiều báo, trong đó có Forbes, Time Out, Thai PBS World, The Phuket News... Lời tự giới thiệu của nhà điêu khắc Arnaud Nazare-Aga chỉ đơn giản vài đoạn trên trang nhà riêng. Sinh năm 1965 tại Paris, Arnaud Nazare-Aga đã sinh khởi niềm đam mê với kiến trúc và điêu khắc hiện đại từ khi còn thơ ấu. Anh thường xuyên đi thăm viện bảo tàng cùng ba mẹ. Anh được giáo dục trong một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng ở vùng Burgundy, miền Đông nước Pháp, và học nghề đúc tượng thạch cao nơi đây.
Được sáng tạo bởi Disney Theatrical Productions (dưới sự chỉ đạo của Thomas Schumacher), vở nhạc kịch The Lion King được trình diễn lần đầu trên sân khấu Broadway vào ngày 13 tháng 11 năm 1997 và đã đón hơn 112 triệu khán giả trên khắp thế giới đến thưởng thức. Sự kiện nhạc kịch mang tính bước ngoặt này quy tụ một trong những đội ngũ sáng tạo giàu trí tưởng tượng nhất tại sân khấu Broadway. Julie Taymor, đạo diễn từng đoạt giải Tony Award®, đã mang đến một câu chuyện tràn đầy hy vọng và phiêu lưu trên phông nền kỳ thú với những hình ảnh tuyệt đẹp. The Lion King cũng sử dụng một số bản nhạc quen thuộc nhất của Broadway do các nghệ sĩ từng đoạt giải Tony Award là Elton John và Tim Rice sáng tác. The Lion King không giống như bất kỳ vở nhạc kịch nào khác.
Bị những kẻ mơ làm ca sĩ dai dẳng tra tấn trong cảnh sống chung chạ ở trại tỵ nạn nên tôi đã, như một hình thức phản vệ, tập cho mình thói quen thưởng thức bằng lỗ tai phân tích, chủ yếu trên khía cạnh ngôn từ...
Ann Phong triển lãm tranh ở Quận Cam, tôi bay qua tham dự. Xem tranh trừu tượng là xem tranh bằng tưởng tượng. Tôi là người sống bằng tưởng tượng. Xem tranh Ann Phong, không chỉ xem cái đẹp, xem nét đặc thù của nữ họa sĩ này, nhưng để sau cùng là xem chính “tôi trong quá trình tưởng tượng từ dãy tranh.” Luhraw viết: “Trước đây tôi chỉ có thể đoán chừng mình là ai. Giờ đây, nhờ nghệ thuật, tôi biết mình là ai.” (Quote.) Có nhiều đêm mất ngủ, tôi thường lên mạng xem tranh, đôi khi, ngủ nhờ trong phòng tranh ảo của Ann Phong. Những khi suy nghĩ về sự hiện sinh của con người, của bản thân, tôi thường tự dẫn mình đến một số tranh của Ann Phong theo quan điểm “Dấu người trên đất.” Tôi yêu thích loạt tranh này, vì Ann Phong nói lên những điều bằng họa, mà tôi chưa thể nói hết những suy nghĩ qua thơ.
Ở nước Mỹ hiện nay, các chính trị gia đang chia rẽ, đấu đá, tranh phiếu cử tri về những vấn đề tưởng như là “chuyện nhỏ” ở các quốc gia văn minh khác. Thí dụ như vấn đề về quyền của người đồng tính. Ở nước Mỹ tự do dân chủ nhất thế giới ngày nay vẫn xảy ra tình trạng đối xử tàn nhẫn, kém văn minh đối với những người đồng tính. Nhiều người khi nghe điều này sẽ không tin đó là sự thật. “Làm sao chuyện đó có thể xảy ra ở xứ sở văn minh này!?” Nhưng sự thật dù khó tin nhưng vẫn là sự thật. Nhất là khi nó được kể lại từ những nhân chứng sống, rồi sau đó được in thành sách, chuyển thể thành phim ảnh.
Trưa Chủ Nhật, 8 tháng 10 năm 2023, tại đài truyền hình SBTN, thành phố Garden Grove, Quận Cam đã diễn ra chương trình Ngọc Trong Tim kỳ 15, với phần trình diễn của các nghệ sĩ khuyết tật đến từ nhiều nơi...
Với một người lãnh đạo có cả tâm, tài và niềm đam mê, với một ban điều hành tâm huyết với nền văn học-nghệ thuật của người Việt tại hải ngoại, với những thiện nguyện luôn sát cánh trong gần hai thập kỷ, có vẻ như VFF đã sẵn sàng đi tiếp thêm 20 năm nữa...
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, trong gia đình theo đạo Tin Lành. Nhập học lớp Đệ Thất vào năm 1944 lúc 14 tuổi tại trường Bưởi...
Nhạc sĩ Y Vũ vừa qua đời tại Sài Gòn ngày 28-9-2023 hưởng thọ 83 tuổi (1940-2023); báo chí lại đặt vấn đề ai là tác giả thật sự của ca khúc nổi tiếng Tôi Đưa Em Sang Sông...
Sáng nay trên trang Facebook, ca sĩ Bảo Yến báo tin nhạc sĩ Quốc Dũng vừa ra đi ngày 24-9-2023. Khoảng mười mấy năm trước Quốc Dũng có sang Hoa Kỳ và ghé ở nhà người quen ở San Jose. Tôi chở Quốc Dũng ra quán cà phê Dạ Thảo, ngồi nghe anh kể chuyện văn nghệ. Anh nói rằng lần này sang Mỹ và sẽ xuống Quận Cam để gặp một nhạc sĩ nổi tiếng mà Quốc Dũng ngưỡng mộ. Bạn có biết người nhạc sĩ đó là ai không- tôi thoáng suy nghĩ- thì ra đó là nhạc sĩ Lam Phương!
Đối với nhiều người Việt tị nạn sinh sống tại hải ngoại, giữ gìn và quảng bá nền văn hóa nghệ thuật của cộng đồng người Việt tị nạn là một sứ mạng tinh thần quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì các hoạt động văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại thường không sinh lợi, chưa kể công sức tiền của bỏ vào xiết kể. Những người làm văn hóa cần phải có tâm, có sự kiên trì, cả sự gan lì để thực hiện sứ mệnh của mình. Duy trì được những sự kiện văn hóa tại hải ngoại kéo dài đến 20 năm có thể được xem là một thành tích đáng kể. Và năm nay, Đại Hội Liên Hoan Phim Ảnh Việt Nam Quốc Tế “Viet Film Fest” bước vào mốc 20 năm, đánh dấu một đoạn đường dài phục vụ cộng đồng. Ngoài việc hỗ trợ và quảng bá những tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt trên thế giới, Viet Film Fest quảng bá phim mang đề tài về con người hoặc văn hóa Việt Nam do những đạo diễn không phải gốc Việt thực hiện.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.