Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á gọi tắt là ASEAN gồm có 10 nước trong vùng. Các nước trong Hiệp Hội có ký một thoả hiệp tự do mậu dịch với nhau, gọi là AFTA, chữ tắt của Association of Southeast Asian Nations Free Trade Area.
Ngày 1 tháng 1 năm 2003 là ngày thoả hiệp NAFTA bắt đầu có hiệu lực. VN dù là nước thuộc ASEAN nhưng đến năm 2006 mới thi hành thoả ước AFTA theo yêu cầu khi gia nhập.
Dù vậy nhà cầm quyền và giới kinh doanh VN không tỏ ra ưu tư gì trong thời gian AFTA có hiệu lực vì VN có chính sách và đường lối kinh tế không giống với AFTA, theo nhận định của Carl Thayler, giáo sư chính trị Học viện Quốc phòng Uùc.
Không lo vì thứ nhứt, mục tiêu của AFTA khác với của Hà nội. Giảm giá thuế quan đối với hàng không chiến lược, tạo thi trường đủ rộng để cạnh tranh thu hút đầu tư ngoại quốc với Trung quốc là hai mục tiêu hàng đầu của AFTA.
Trong khi đó, VN xuất sang các nước thuộc Hiệp Hội ASEAN rất ít và chính môi trường an ninh và lợi thế thu hút đầu tư ngoại quốc của VN nhiều hơn các nước khác trong Hiệp hội.
Trong điều kiện đó VN có thể tự gây ảnh hưởng cho mình không cần AFTA.
Thứ hai, VN đã và đang hạ giá cả hàng hoá của mình xuống 2% so với các nước trong vùng. Nhờ vậy hàng VN luân lưu tư do không thua gì Tân Gia Ba dù năm 2006, khi VN gia nhập theo AFTA, mới phải hạ thuế quan xuống còn 5%.
Những người theo dõi kinh tế VN cho biết VN chắc sẽ không quay lại chính sách tăng thuế xuất nhập của mình vì VN đang phấn đấu vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế giới năm 2005.
Vả lại hơn phân nửa những mặt hàng VN trao đổi với các nước ASEAN (gạo và hàng tiện nghi gia dụng khác) đều không nằêm trong danh sách phải giảm thuế của AFTA.
Thứ ba và quan trọng nhứt, mũi nhọn phát triễn giao thương của VN ø hướng về các nước khác, chớ không phải ASEAN. Năm rồi thương vụ giữa ASEAN và VN chỉ chiếm 22% tổng số thương vụ của VN ít hơn năm 1995, mức ấy là 32%. Nhưng thương vụ giữa VN và Hông Kông, Đài Loan, Nhựt chiếm cao hôn, lên đến 44% năm rồi và 32% năm 1995.
Chỉ vài ngày sau Thoả ước AFTA bắt đầu có hiệu lực, nó đã hết hấp dẫn.
Mã Lai, Nam dương và Phi luật tân tìm cách khai thác những diều khoản của thoả Ước để bảo hộ mậu dịch. Và Thoả Ước cũng không dự trù biện pháp chế tài.
Xu thế chung của các nước trong Vùng Tư do Mậu dịch AFTA là ngó đến một thị trường tiêu thụ đông đảo hơn: Trung quốc. Cuộc thương lượng giữa ASEAN và Trung Quốc có thể thành hình một vùng mậu dịch tư do khác giữa ASEAN và Trung Quốc vào năm 2015.
Thị trường tư do sau này lợi cho VN hơn. VN và TQ có đường biên giới chung dài và mậu dịch tương tiêu khối lượng rất lớn đã xảy ra từ lâu. Ngoài tương quan ngoại thương với các nước ASEAN, VN còn nhiều tương quan buon bán với nhiều nước như Trung Quốc, Nhựt, Liên Aâu, và quan trọng nhứt gần đây với Mỹ. Từ đó Hà nội đang cố gắng để được gia nhập vào tổ chức Mậu dịch Thế giới vào năm 2005 thay vì 2006.
Nhưng theo các chuyên viên kinh tế, VN muốn phát triển kinh tế và ngoại thương, phải làm nhiều việc hơn là chỉ tập chú vào việc cắt giảm thuế xuất nhập cảng. VN cần cho kinh tế tự do hơn, như giảm bải chế độ hạn ngạch, dành quá nhiều ưu quyền cho quốc doanh, khiến nhiều đầu tư ngoại quốc phải rút lui. Đồng thời VN phải chuẩn bị cho ngành kinh doanh tư nhân trong nước để tạo cạnh tranh giữa quốc doanh và tư nhân với nhau hầu thúc đẩy phát triễn. Và quan trọng nhứt là VN phải bài trừ tham nhũng, quan liêu, sửa đổi pháp chế, cải thiện hạ tầng cơ sở.
Ngày 1 tháng 1 năm 2003 là ngày thoả hiệp NAFTA bắt đầu có hiệu lực. VN dù là nước thuộc ASEAN nhưng đến năm 2006 mới thi hành thoả ước AFTA theo yêu cầu khi gia nhập.
Dù vậy nhà cầm quyền và giới kinh doanh VN không tỏ ra ưu tư gì trong thời gian AFTA có hiệu lực vì VN có chính sách và đường lối kinh tế không giống với AFTA, theo nhận định của Carl Thayler, giáo sư chính trị Học viện Quốc phòng Uùc.
Không lo vì thứ nhứt, mục tiêu của AFTA khác với của Hà nội. Giảm giá thuế quan đối với hàng không chiến lược, tạo thi trường đủ rộng để cạnh tranh thu hút đầu tư ngoại quốc với Trung quốc là hai mục tiêu hàng đầu của AFTA.
Trong khi đó, VN xuất sang các nước thuộc Hiệp Hội ASEAN rất ít và chính môi trường an ninh và lợi thế thu hút đầu tư ngoại quốc của VN nhiều hơn các nước khác trong Hiệp hội.
Trong điều kiện đó VN có thể tự gây ảnh hưởng cho mình không cần AFTA.
Thứ hai, VN đã và đang hạ giá cả hàng hoá của mình xuống 2% so với các nước trong vùng. Nhờ vậy hàng VN luân lưu tư do không thua gì Tân Gia Ba dù năm 2006, khi VN gia nhập theo AFTA, mới phải hạ thuế quan xuống còn 5%.
Những người theo dõi kinh tế VN cho biết VN chắc sẽ không quay lại chính sách tăng thuế xuất nhập của mình vì VN đang phấn đấu vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế giới năm 2005.
Vả lại hơn phân nửa những mặt hàng VN trao đổi với các nước ASEAN (gạo và hàng tiện nghi gia dụng khác) đều không nằêm trong danh sách phải giảm thuế của AFTA.
Thứ ba và quan trọng nhứt, mũi nhọn phát triễn giao thương của VN ø hướng về các nước khác, chớ không phải ASEAN. Năm rồi thương vụ giữa ASEAN và VN chỉ chiếm 22% tổng số thương vụ của VN ít hơn năm 1995, mức ấy là 32%. Nhưng thương vụ giữa VN và Hông Kông, Đài Loan, Nhựt chiếm cao hôn, lên đến 44% năm rồi và 32% năm 1995.
Chỉ vài ngày sau Thoả ước AFTA bắt đầu có hiệu lực, nó đã hết hấp dẫn.
Mã Lai, Nam dương và Phi luật tân tìm cách khai thác những diều khoản của thoả Ước để bảo hộ mậu dịch. Và Thoả Ước cũng không dự trù biện pháp chế tài.
Xu thế chung của các nước trong Vùng Tư do Mậu dịch AFTA là ngó đến một thị trường tiêu thụ đông đảo hơn: Trung quốc. Cuộc thương lượng giữa ASEAN và Trung Quốc có thể thành hình một vùng mậu dịch tư do khác giữa ASEAN và Trung Quốc vào năm 2015.
Thị trường tư do sau này lợi cho VN hơn. VN và TQ có đường biên giới chung dài và mậu dịch tương tiêu khối lượng rất lớn đã xảy ra từ lâu. Ngoài tương quan ngoại thương với các nước ASEAN, VN còn nhiều tương quan buon bán với nhiều nước như Trung Quốc, Nhựt, Liên Aâu, và quan trọng nhứt gần đây với Mỹ. Từ đó Hà nội đang cố gắng để được gia nhập vào tổ chức Mậu dịch Thế giới vào năm 2005 thay vì 2006.
Nhưng theo các chuyên viên kinh tế, VN muốn phát triển kinh tế và ngoại thương, phải làm nhiều việc hơn là chỉ tập chú vào việc cắt giảm thuế xuất nhập cảng. VN cần cho kinh tế tự do hơn, như giảm bải chế độ hạn ngạch, dành quá nhiều ưu quyền cho quốc doanh, khiến nhiều đầu tư ngoại quốc phải rút lui. Đồng thời VN phải chuẩn bị cho ngành kinh doanh tư nhân trong nước để tạo cạnh tranh giữa quốc doanh và tư nhân với nhau hầu thúc đẩy phát triễn. Và quan trọng nhứt là VN phải bài trừ tham nhũng, quan liêu, sửa đổi pháp chế, cải thiện hạ tầng cơ sở.
Gửi ý kiến của bạn