Hôm nay,  

Mỹ bức tử VNCH theo yêu cầu của Tàu để Mỹ-Tàu hợp tác chống Liên Xô (1972)

03/03/202109:29:00(Xem: 5492)
 
* TT Nixon: Cuộc chiến phải được giải quyết ổn thỏa trước khi tôi đến TQ (1972)
* TT Chu Ân Lai:  Việc rút quân có thể được giải quyết chậm nhất vào năm sau? (1971)
* CT Khrushchev: Declaration in his "wars of national liberation" for South Vietnam.
*  Kennedy Administration began its efforts to counter the insurgency in South Vietnam.
* Neil Sheihan: "Kennedy had instructed the Army to use Vietnam as a laboratory to develop techniques of counterinsurgency" để chống Liên Xô.
 
Nhắc lại chuyện xưa, vào năm 1971 TS Kissinger đến Trung quốc, và một năm sau 1972, TT Nixon  cũng đến nơi đây để  gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh.  Phần trình bày sau là trích đoạn các  văn bản ghi lại cuộc đối thoại  của hai nhà lãnh đạo  Mỹ-Trung liên quan đến cuộc chiến tại Việt Nam, được giải mật và được công bố trên trang The Foreign Relations of the United States (FRUS)  và trên Văn khố của Bộ Ngoại Giao (US Depart. Of States Archive). Nhưng trước hết bàn  sơ qua về " học thuyết Nixon".
Học Thuyết Nixon - Năm 1969 Chính phủ Mỹ đề ra chính sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh, thực chất là kế hoạch rút quân đội  Mỹ ra khỏi vùng này. Một năm sau, năm 1970, điều này  được ghi lại trong tiểu mục gọi là " Học thuyết Nixon và phản ứng của người Á Châu -The Nixon Doctrine and the Asian reaction". Trong đó viết: " Tổng thống đã tuyên bố vào năm 1970 rằng “Chắc chắn vì lợi ích của chúng tôi, cũng như lợi ích của hòa bình và ổn định ở châu Á và thế giới, chúng tôi thực hiện những bước tiến  nhằm   cải thiện quan hệ với Bắc Kinh - take what steps we can toward improved practical relations with Peking."[1]
 
** Hội nghị thượng đỉnh  Mỹ -Trung
Vào ngày 28 tháng 4 (1971), Tổng thống Nixon nói với TS Kissinger: "Những gì chúng tôi đang toan tính  về cơ bản là  hội nghị thượng đỉnh với Trung Quốc, đó là kế hoạch của tôi. Đó là ván cờ lớn. Bây giờ, đó mới chỉ là một nửa, phần còn lại của tấn tuồng này là thực hiện một số điều về cuộc chiến này.  " Kissinger trả lời: “Với điều đó, tôi nghĩ, những người ở vào thời kỳ  1954 họ cần hòa bình, và sau đó họ đã giải quyết  vấn đề Việt Nam. Họ cần hòa bình ngay, điều đó  có tác dụng đối với Hà Nội - 54 they needed peace, and they settled Vietnam then. They need peace now, it’s got to have effect on Hanoi . Đó là một lợi thế của người làm  sứ giả." Nixon nói thêm: “Chà, để tôi nói tiếp, cuộc chiến phải được giải quyết ổn thỏa trước khi tôi đến Trung Quốc- before I get there, the war has to be pretty well settled. . Tôi chỉ đơn giản nói rằng, chúng ta chưa thể đến  Trung Hoa cho đến khi chúng ta có một số kế sách. I’d just simply say, we can’t come there until we have some idea." [2]
 
 * Cuộc họp giữa TS Kissinger và TT Chu Ân Lai (Ngày 07.09.1971)
[...]
-Thủ tướng Chu: Kể từ khi Tổng thống Nixon nhậm chức, ông ấy đã bày tỏ sẵn sàng giải quyết các trở ngại  cơ bản với chúng tôi. Ngay từ đầu,ông ta đã tỏ thái độ sẵn sàng đến Bắc Kinh gặp chúng tôi. Như ông  đã biết, do  biến cố ở Cambodian năm ngoái và năm nay có trận chiến Đường 9 ( Hạ Lào 719), điều này  ảnh hưởng đến quan hệ  giũa chúng ta.
- Tiến sĩ Kissinger: Chúng tôi đồng ý. Đó là lý do tại sao tôi muốn có cơ hội để bày tỏ quan điểm của chúng tôi về hòa bình ở Đông Dương, để những mâu thuẫn này có thể được giải quyết, về vấn đề  Đông Dương và về mối quan hệ của chúng ta.
- Thủ tướng Chu: Liệu vấn đề rút quân khỏi Đông Dương có thể được giải quyết chậm nhất vào năm sau hay không? Ông vừa đến Sài Gòn- Can’t the matter of a military withdrawal from In-dochina be settled at the most by next year? You just came from Saigon..[...]
 
- Tiến sĩ Kissinger: Tôi có thể đảm bảo với Ngài  rằng chúng tôi muốn kết thúc chiến tranh ở Việt Nam thông qua các cuộc đàm phán, và chúng tôi đã chuẩn bị ấn định ngày rút toàn bộ lực lượng của chúng tôi ra khỏi Việt Nam và Đông Dương như Ngài đã đề nghị trước đây-withdrawalof all our forces from Vietnam and Indochina as you suggested before." [...]
-Tiến sĩ Kissinger: Tôi thay mặt Tổng thống Nixon đề nghị, chúng tôi sẽ ấn định ngày rút khỏi Việt Nam.
-Thủ Tướng Chu: Ngày rút quân hoàn toàn?(A date for complete withdrawal?)
Tiến sĩ Kissinger: Đúng.[3]

* Cuộc họp giữa  TT Nixon và  TT Chu Ân Lai (Ngày 22.02.1972)
- Chu Ân Lai - Vì Mỹ đã quyết định rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Việt Nam và toàn cõi Đông Dương, và Mỹ muốn thấy khu vực này  trung lập, nghĩa là không liên kết, không có lực lượng cụ thể nào chiếm đóng vùng này.  Nếu đó là chính sách của Tổng thống và của Chính phủ qúi quốc, tôi nghĩ sẽ tốt hơn thời nên có hành động cụ thể. Nếu không, qúi quốc  sẽ chỉ tạo điều kiện cho Liên Xô tăng cường ảnh hưởng của họ ở vùng này. Về phần chúng tôi, sẽ không sợ điều đó xảy ra, vì cho dù giúp đỡ Việt Nam, Lào, Campuchia, chúng tôi chưa bao giờ đòi hỏi đặc quyền nào, cũng như chưa bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ của họ.
 
- Tổng thống Nixon: Thưa Thủ tướng, vấn đề Việt Nam sẽ không thể chia rẽ chúng ta nữa. Thủ tướng đã gợi ý rằng nếu chúng tôi có thể tiến nhanh hơn thì đó là một việc làm khôn ngoan, và như Ngài đã nói, đó là điều can đảm. Tôi rất tôn trọng quan điểm của Thủ tướng về chủ đề này, một vấn đề mà phía  có lợi duy nhất là Liên Xô nếu Mỹ còn tiếp tục chiến tranh. Liên Xô muốn Hoa Kỳ bị trói tay ở  vùng này. Tất nhiên, họ muốn ngày càng có nhiều ảnh hưởng hơn ở Bắc Việt Nam. Từ tất cả những thông tin tình báo mà chúng tôi có được, Liên Xô ,  thậm chí  đang kích động phía Bắc Việt  tiếp tục chiến đấu  và không đàm phán.[4]
* Cuộc họp giữa TT Nixon  và TT Chu Ân Lai (24.02.1972)
- Tổng thống Nixon: Tôi muốn Thủ tướng biết rằng  chúng tôi phải làm những gì cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình, bảo vệ lực lượng của chúng tôi và nhận lại tù binh của chúng tôi. Tôi nhận thấy rằng chính phủ của Thủ tướng có thể có phản ứng với những gì chúng tôi làm. Để hoàn thành mục tiêu của mình, chúng tôi sẽ không làm bất cứ điều gì mà chúng tôi không cho là cần thiết. Và mục tiêu của chúng tôi là rút hết quân đội ra khỏi Việt Nam  sau khi các tù nhân của chúng tôi được trả về. Nhưng nếu chúng tôi không  đạt được mục tiêu đề ra trong  các cuộc đàm phán, thì không phải  là tại phía chúng tôi, mà là do phía Bắc Việt buộc chúng tôi phải tiếp tục sử dụng biện pháp quân sự. Nhưng việc giải quyết vấn đề  tại  Việt Nam thưa Thủ tướng là điều tất yếu vì tôi đã quyết định, nhưng nó phải được thực hiện đúng cách. Việc này  sẽ sớm được giải quyết.
 
Người phiên dịch: Ý của Tổng Thống  là sẽ rút quân liền?
- Tổng thống Nixon: Vâng.  Sẽ thực hiện  việc rút quân đội Mỹ. Nhưng như tôi đã nói, việc này phải được thực hiện một cách đúng đắn. Chúng tôi sẽ không rút lui đơn phương mà không đạt được các mục tiêu theo  chính sách mà chúng tôi đã đề ra.
- Thủ tướng Chu: Nhưng điều đó khiến mọi thứ trở nên phức tạp hơn. Bởi vì cuộc chiến hiện tại   không phải do chính phủ của ông khởi  đầu, mà là bởi những người tiền nhiệm của qúi quốc. Ngay từ đầu, không cần thiết phải gửi lực lượng Mỹ đến đó. Một khi các ông  gửi quân vào, và càng nhiều quân nhân  được gửi đến, là các ông đã bị sa lầy. Vì vậy chính phủ đương nhiệm của qúi quốc  buộc phải rút quân và vấn đề đáng tiếc này lại đang nằm trong tay của ông.
 
- Tổng thống Nixon: Đối với Việt Nam, chúng tôi hiểu quan điểm của Thủ tướng. Tuy nhiên, chúng tôi hy vọng, ít nhất sẽ không làm những gì mà Liên Xô dường như họ đang làm, khuyến khích phía Bắc Việt từ chối đàm phán.
    Vấn đề là Liên Xô muốn Hoa Kỳ bị trói chân tại Việt Nam-The problem is the Soviet Union wants the U.S. to be tied down in Vietnam. Họ không muốn chúng tôi kết thúc cuộc chiến- It doesn’t want our involvement to end. Họ dường như không khuyến khích phía Bắc Việt chấp nhận đàm phán-It appears to be discouraging the North Vietnamese from negotiating. Tôi không yêu cầu Thủ tướng trả lời, nhưng nếu phía Bắc Việt bị cả phía Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân đều không khuyến khích đàm phán, điều này sẽ tạo ra tình thế khó khăn.


- Thủ tướng Chu: Lúc đầu, khi Chính quyền Johnson tuyên bố ngừng ném bom vào năm 1968, lúc đó chúng tôi không có nhiều ý kiến về các cuộc đàm phán tại Paris. Vào thời điểm đó, chúng tôi cảm thấy không phải là thời cơ thuận tiện, nhưng sau năm 1969, quan điểm của chúng tôi chuyển sang ủng hộ các cuộc đàm phán. Trên thực tế, để giúp các cuộc đàm phán Paris có kết quả, chúng tôi đã dừng các cuộc Đàm phán tại Warsaw. Và sau đó, chỉ vì những gì đã xảy ra trong một buổi trình diễn thời trang ở Đại sứ quán Nam Tư ở Warsaw, những cuộc nói chuyện này mới bắt đầu lại. Và họ nói với chúng tôi những gì đang diễn ra trong các cuộc đàm phán. Kể từ thời điểm đó trở đi, chúng tôi chú ý đến các cuộc đàm phán bởi vì trong chiến đấu cũng nhất định cần có các cuộc đàm phán, chẳng hạn như trong Chiến tranh Triều Tiên.
- Thủ tướng Chu: Còn ở Phnom Penh?
- Tổng thống Nixon: Tại Phnom Penh, và cả khi ông ấy (Sihanouk) đến Washington vào đầu năm 1953. Không phải chính sách của chúng tôi là đã hạ bệ ông ấy ở Campuchia.
- Thủ tướng Chu: (Cười) Chúng tôi đã tranh cãi về vấn đề đó với Tiến sĩ Kissinger.
- Tổng thống Nixon: Tôi nghĩ rằng nếu ông ta thân thiết với Trung Quốc, điều này sẽ không làm tổn thương Sihanouk, nhưng sự gần gũi của ông ta với Bắc Việt khiến ông ta bị tổn thương vì người Campuchia ghét phía Bắc Việt Nam. Đó là phân tích của tôi, có lẽ  không giống như ý của Thủ tướng. Nhưng tôi nghĩ đó là những gì đã xảy ra.
    Nếu Bắc Việt rút khỏi Campuchia, thì người Campuchia có thể xác định về việc  liệu họ có muốn Sihanouk trở lại hay không. Nhưng chừng nào phía Bắc Việt  còn ở Campuchia, tôi nghĩ khả năng ông Sihanouk trở lại nắm quyền là rất ít. Đó  là quan điểm của tôi, nhưng chúng tôi không có cách nào để kiểm soát sự kiện đó.


- Thủ tướng Chu: Do phương pháp phân tích của chúng ta khác nhau, nên chúng ta không thể đưa ra kết luận giống nhau. Vì như chúng tôi thấy, Chính quyền Johnson đã gửi  lực lượng Mỹ đến đàn áp những người yêu nước ở miền Nam Việt Nam, và trong hoàn cảnh này, làm sao  có thể từ chối việc đồng bào của họ ở miền Bắc vào Nam hỗ trợ anh em của họ ở miền Nam?

- Tổng thống Nixon: Tôi nghĩ rằng tôi có thể hiểu điều này mặc dù tôi phản đối nó. Tôi có thể hiểu miền Bắc Việt Nam đưa quân vào miền Nam; đó là thuộc về  Việt Nam. Nhưng Bắc Việt không có lý do đưa quân vào Campuchia. Người Campuchia luôn chiến đấu với quân  Bắc Việt, tất cả đều là người Việt Nam.
    Đó là cách suy nghĩ của tôi, nhưng tôi sợ những gì chúng tôi nói ở đây sẽ không ảnh hưởng đến họ.

- Thủ tướng Chu: Đó là vấn đề ở góc độ lịch sử, vì thực dân Pháp đã liên kết ba nước Đông Dương với nhau và liên kết lợi ích của họ với nhau. Chính là chữ “Đông Dương” do người Pháp đặt ra,  trước đây không có tên như vậy. Trong lịch sử, họ là ba quốc gia riêng biệt. Quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam rất gần gũi; thứ hai, chúng tôi có quan hệ với Campuchia bằng đường biển;  không có nhiều quan hệ với Lào.

   Chính chủ nghĩa thực dân của Pháp đã liên kết lợi ích của họ. Sau đó là việc người Pháp vẽ lại đường ranh giới, điều này làm tăng mâu thuẫn giữa ba nước, giống như người Anh ở châu Phi.

- Thủ tướng Chu: Và sau khi người Nhật bị đánh bại, người Pháp quay trở lại chiếm đóng ba nước Đông Dương. Vì vậy ba dân tộc liên kết  với nhau để chống lại thực dân Pháp. Sau hiệp định năm 1954, ba nước lại bị chia cắt.
  Và sau Hội nghị Genève, nếu Chính phủ Mỹ lúc bấy giờ không phá hoại Hiệp định Genève thì tình hình đã khác. Việt Nam đã  được thống nhất. Campuchia có lẽ sẽ vẫn dưới quyền của Hoàng tử Sihanouk. Đối với Lào, tình hình nơi đó khác, lẽ ra đã được giải quyết bằng Hiệp định Genève 1962 về Lào.

    Nhưng sau đó vào thời Chính quyền Johnson,  đã gửi rất nhiều lực lượng vào miền Nam Việt Nam - nếu chỉ nhìn vào quân số, sức mạnh vật chất, họ vượt xa lực lượng vũ trang Nam Việt Nam và cả lực lượng vũ trang Bắc Việt Nam.
   Và vì thế, quân Việt Nam đã sử dụng Campuchia làm nơi chuyển quân và ẩn nấp nhưng chúng tôi chỉ biết về điều đó vào năm 1969. Thực tế là Hoàng thân Sihanouk đã thông cảm với quân Việt Nam và cho phép họ đi qua Campuchia vì trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp họ đã sát cánh bên nhau. Vì vậy, sự cảm thông của Hoàng thân Sihanouk dành cho Bắc Việt Nam là điều dễ hiểu.     Vì vậy, một khi  chiến tranh kết thúc, quân Việt Nam chắc chắn sẽ rút khỏi Campuchia, và Campuchia sẽ là của người Campuchia - So if the war comes to an end, the Vietnamese forces will surely withdraw from Cambodia, and Cambodia will be Cambodian.

 
- Tổng thống Nixon: Thủ tướng nêu rõ nguyên tắc của Cộng hòa Nhân dân là không can thiệp quân sự bằng các lực lượng vũ trang ở các quốc gia lân cận. Nhưng  vì sao  Thủ tướng lại phản đối sự thống trị của quân đội Bắc Việt tại  Campuchia và Lào?
- Thủ tướng Chu: 
Chỉ vì chiến tranh đã nổ ra, và  cuộc chiến này  do Hoa Kỳ gây ra nên họ  đã tiến hành các hoạt động ở đó.

- Tổng thống Nixon: 
Khi chiến tranh kết thúc, Thủ tướng có tin rằng Bắc Việt Nam nên rút  khỏi Campuchia và rút khỏi Lào?

- Thủ tướng Chu: Nếu cuộc chiến chấm dứt hoàn toàn, Hoàng thân Sihanouk trở lại  Campuchia, thì Bắc Việt chắc chắn sẽ rút quân. Nếu vẫn còn Lon Nol ở Campuchia, điều đó là không thể. Bởi vì ngay cả  đa số người dân Campuchia cũng không ủng hộ Lon Nol. Ông  ta là người bị áp đặt từ bên ngoài.
    Tôi vẫn duy trì câu hỏi về Đông Dương mà qúi quốc  đã  gây ra sự hỗn loạn. Tất nhiên, đó không phải là trách nhiệm về phía chính phủ của ông. Bởi vì vào thời kỳ đó toàn khu vực, hoặc ít nhất hai phần ba khu vực đó  có thể đã trở thành một khu vực hòa bình và trung lập. Nhưng vì chính sách của John Foster Dulles vẽ ra đã  phá hoại  Hiệp định Genève, nên toàn bộ sự việc đã trở thành một mớ hỗn độn. Điều đó đã được Anthony Eden đưa ra trong hồi ký của ông ta. Các thỏa thuận được ký kết tại Genève đã quy định rõ ràng một cuộc tổng tuyển cử  sau hai năm, nhưng Dulles nói rằng việc đó thực hiện trong nội bộ.
    Vì vậy, nếu chúng ta muốn mang lại một khu vực hòa bình và trung lập, không chỉ cho ba nước Đông Dương mà cho cả vùng Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng đã đến lúc không quá muộn để làm điều này. Nếu không sẽ không có sự yên bình. Ý của tôi không chỉ là Đông Dương mà còn là Đông Nam Á - Thái Lan, Malaysia, Singapore, Philippines. Hiện nay có xu hướng này  ở các nước trong vùng. Chúng ta nên giúp họ đi theo hướng này, là kiến tạo nền độc lập trong khu vực.
    Thưa Tổng thống, ông có thể nói rằng một khoảng trống quyền lực  sẽ  hình thành và nó sẽ làm phức tạp thêm tình hình. Dù sao, ông  nên biết rằng chúng tôi sẽ không  đến những nơi này. Ông thừa nhận rằng dựa vào niềm tin của chúng ta là nếu rắc rối xảy ra, chúng ta sẽ lấp đầy khoảng trống. Trong cuộc họp đầu tiên tôi đã thảo luận; nhưng, tất nhiên, thời gian có thể không nhanh như vậy. Nó phụ thuộc vào ý thức chính trị của người dân mỗi quốc gia.
    Vì vậy, rất có khả năng xảy ra ở một quốc gia  trong vùng nếu dân chúng chưa vùng lên, thì một cường quốc nào đó sẽ đến đó và thiết lập một vùng ảnh hưởng.
 
- Tổng thống Nixon: Chúng tôi có quan điểm khác. Như tôi đã nói với Thủ tướng, chúng tôi tôn trọng quan điểm của ông ta. Về phía Việt Nam, Bắc Việt đã bác bỏ đề nghị tám điểm của chúng tôi. Đây là một điều tốt có thể mang lại mục tiêu mà Thủ tướng đang mô tả về một Đông Dương trung lập, trong một chừng mực về nền trung lập của Campuchia, Lào và Việt Nam. Tôi  nói rằng đây là vấn đề của chúng ta bây giờ, và tôi sẽ giải quyết nó theo cách đúng đắn.
    Tôi vui mừng rằng chính phủ của Thủ tướng sẽ không cố gắng ngăn cản Bắc Việt đàm phán. Đó là cách tốt nhất để giải quyết  vấn đề  hơn là giải quyết  bằng giải pháp quân sự.

- Thủ tướng Chu: Vậy đây là một câu hỏi cụ thể, chỉ là một vấn đề riêng lẻ. Phía Bắc Việt họ nói rằng họ muốn tiếp tục đàm phán. Qúi ông  đã nói không vào ngày 17 của tháng này và sau đó đồng ý đến ngày 24. Lý do  qúi ông  từ chối là vì Hội nghị  ở Versailles.

- Tiến sĩ Kissinger: Chúng tôi cảm thấy nó không thích hợp cho các cuộc đàm phán. Họ đang gặp nhau hôm nay.

- Tổng thống Nixon: Đúng. Sắp tới chúng tôi sẽ cố gắng đàm phán, nhưng chúng tôi không thể bị Bắc Việt áp đặt về vấn đề này. Chúng tôi cũng  không cố gắng ra lệnh cho họ. Họ không cố gắng thương lượng. Họ nói đây này, cầm lấy hoặc vứt bỏ  nó đi và chúng tôi không thể chấp nhận đàm phán theo cách này. Nếu họ nói chuyện hợp lý, như Thủ tướng và tôi đang nói, dù không đồng ý, chúng ta vẫn có thể tìm thấy điểm chung. Sự việc có thể đã được giải quyết hai năm trước khi tiến hành các cuộc đàm phán bí mật, nhưng họ đã không nói theo cách đó-This could have been settled two years ago when secret talks started, but they won’t talk that way. [5]

** Nhận xét của báo chí Mỹ
Theo trang  History: " Ở Việt Nam, Liên Xô, chứ không phải Trung Quốc, đã trở thành những người ủng hộ quan trọng nhất cho chế độ Bắc Việt. Và cuộc chiến ở Việt Nam diễn ra không suông sẻ. Người dân Hoa Kỳ nôn nóng muốn chấm dứt xung đột, và ngày càng thấy rõ rằng Hoa Kỳ  không thể cứu được miền Nam Việt Nam, khỏi những kẻ xâm lược cộng sản. Do đó, chuyến đi của Nixon đến Trung Quốc là một động thái được tính toán để thúc đẩy quan hệ ngoại giao chặt chẽ hơn với Trung Quốc làm đòn bẩy trong việc đối phó với Liên Xô, đặc biệt là về vấn đề Việt Nam. Ngoài ra, Hoa Kỳ có thể sử dụng Trung Quốc làm đối trọng với Bắc Việt Nam. Bất chấp những tuyên bố của họ về tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, CHND Trung Hoa và Bắc Việt Nam, là những đồng minh đáng ngờ. Như nhà sử học Walter LaFeber đã nói, “Thay vì dùng Việt Nam để kiềm chế Trung Quốc, Nixon kết luận rằng ông ta nên dùng Trung Quốc để kiềm chế Việt Nam tốt hơn - Instead of using Vietnam to contain China, Nixon concluded that he had better use China to contain Vietnam.”. Về phần mình, CHND Trung Hoa mong muốn có một đồng minh khác trong mối quan hệ ngày càng căng thẳng với Liên Xô và chắc chắn hoan nghênh khả năng gia tăng thương mại Mỹ-Trung - the PRC was desirous of another ally in its increasingly tense relationship with the Soviet Union and certainly welcomed the possibility of increased U.S.-China trade[6]
 
 ** Mỹ - Trung hợp tác chống chủ nghĩa bá quyền Liên xô.
Theo cuốn Mưu Lược Đặng Tiểu Bình:" Khi tiếp xúc với giới báo chí, Đặng kêu gọi Mỹ, Trung quốc, Nhật Bản, Tây  Âu và các nước khác trên thế giới liên hiệp lại để cùng chống chủ nghĩa bá quyền Liên xô. Ông nói: Chúng tôi cho rằng nguy cơ chiến tranh đến từ phía Liên xô, sự uy hiếp đến hòa bình, an toàn và ổn định trên thế giới đến từ phía Liên Xô. Chúng ta có thể làm thế này: Liên xô hành động ở đâu, chúng ta sẽ ngăn trở ở đó, phá hoại, đập tan mọi hành động của Liên Xô ở bất cứ nơi nào...".[7] 
 
Nhiều nhà phê bình thời cuộc cho rằng Mỹ không muốn bảo vệ Miền Nam  Việt Nam nên đã  từ chối không ký kết thỏa hiệp Hỗ Tương quân sự / Mutual Defense Treaty với VNCH giống như Mỹ đã ký kết với các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Điều này được xác nhận bởi Tài liệu Quốc Phòng/Penpentagon Papers lưu tại Văn Khố quốc gia online năm 2011. Lần thứ hai Mỹ từ chối ký thỏa Hiệp Hỗ Tương Quân sự theo yêu cầu của phía VNCH vào ngày 18.10.1961 [8].  Theo Tài Liệu Quốc Phòng: " Tháng 11 năm 1960, Hội nghị các Đảng Cộng sản và Công nhân của các nước Xã hội Chủ nghĩa một lần nữa tuyên bố ủng hộ  chiến tranh dành "chính nghĩa" mà VNDCCH đang theo đuổi. Hoa Kỳ được xác định là đế quốc xâm lược, các đảng cộng sản có quyền và nghĩa vụ  phải tham gia vào  cuộc đấu tranh chống thực dân này. Vào thời điểm Khrushchev   đưa ra  tuyên ngôn trên  trong bài diễn văn đã đề xướng "các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc", trong khi  "cuộc chiến tranh giải phóng" tại  miền Nam Việt Nam đã gần một năm rưỡi - By the time Khrushchev cited that Declaration in his "wars of national liberation" speech, the "liberation war" for South Vietnam was nearly a year and a half old.[9].  Điều  này  phù  hợp  với  chính sách Counter  Insurgency Program (CIP) của Mỹ  đề  ra  năm 1961, cho nên  Mỹ  đã không ký kết thỏa hiệp Hỗ Tương quân sự  vì không muốn bảo vệ VNCH lâu dài  mà  chỉ xử dụng  VNCH như là chiến trường nhằm chống Liên Xô qua chiến tranh giải phóng do Liên Xô khởi xướng (1960). Cũng theo Tài Liệu Quốc Phòng,  việc Liên Xô hô hào chống Mỹ, cũng là mục tiêu chiến lược  của Mỹ khi áp dụng  chiến tranh chống  giải phóng (CIP) vào Việt Nam năm 1961 nhằm chống Liên Xô, điều này có ghi  trong  Pentagon Papers:" Các vấn đề đối phó với Mạc-Tư-Khoa cấp bách hơn nhiều so với các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Cảm giác rằng vị thế của Mỹ trên thế giới đã bị xói mòn bởi Liên Xô  và họ đã chiếm ưu thế; Kennedy đặc biệt quyết tâm giành lại sức mạnh, uy tín và ảnh hưởng của Mỹ. Bất cứ điều gì có thể được hiểu là điểm yếu của Mỹ đối với Liên Xô đều phải tránh né. Điều này đã ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ đối với Việt Nam - Kennedy was particularly determined to regain American strength, prestige and influence. Anything which could be construed as American weakness vis-a-vis the USSR was to be avoided. This-affected policy toward Vietnam ."[10]  Vì vậy theo tác giả Neil Sheihan sau khi ông ta công bố một phần tài liệu tối mật  Pentagon Papers vào năm 1972, đã viết" Chính vì lý do này mà Kennedy đã chỉ thị cho Quân đội sử dụng Việt Nam như một phòng thí nghiệm để phát triển các kỹ thuật chống chiến tranh giải phóng  for this reason that Kennedy had instructed the Army to use Vietnam as a laboratory to develop techniques of counterinsurgency". Khrushchev đã nói rằng Liên Xô sẽ tránh một cuộc chiến tranh nguyên tử với Hoa Kỳ nhưng sẽ ủng hộ các cuộc chiến tranh giải phóng và các cuộc nổi dậy  ở các quốc gia nghèo của Thế giới thứ ba- Khrushchev had said that the Soviet Union would avoid an atomic war with the United States but would support “liberation wars and popular uprisings” in the poor nations of the Third World."[11]
 
   Vào tháng 9 năm 1995 Tướng  Westmoreland  đến  Nam Cali  và dành  cho  đài  Radio  Little Sàigòn  cuộc phỏng  vấn  về  Tết  Mậu  Thân  1968  ­  và  về lý do quân đội Mỹ không được   tiến  quân  ra  Bắc. Cuộc phỏng vấn  do Việt  Dũng thực hiện, sau đó  bài  phỏng vấn được loan lại trên  báo HồnViệt số tháng 10.1995 :
Tướng  Westmoreland : "  Chúng  tôi  đã  biết  trước cuộc  tổng  công  kích  sẽ  xảy  ra. [...] chủ trương  của  Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc  chiến  tại miền  Nam, là  chúng  ta không  phát  triển  cuộc  chiến ra ngoài phạm  vi  lãnh  thổ  này.  [...] chúng  tôi  không  bao  giờ  được  quyền đế cắt  đứt  con  đường  này  dù  chúng  tôi  dư  sức  làm  điều  đó,...  vi`   việc  cắt  đứt  con  đường  này  sẽ  giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều" . Phải chăng "chiến lược" của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là  để " to develop techniques of counterimsurgency" nhằm chống Liên Xô nên đã từ chối không ký Thỏa hiệp Hỗ tương Quân sự (Mutual Defense Treaty) với VNCH?
 
Trích đoạn bài viết trên Việt Báo ngày 21.02.2021 ghi lại tuyên bố của TT Nixon về vụ 1963 Thật không may cho chính quyền Kennedy, tay họ  đã dính  máu của Diệm -The Kennedy administration has Diem’s blood upon its hands,unfortunately." Xin mượn lời TT Nixon (CH) rằng: Phải chăng cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ " tay họ đều dính máu- blood upon its hands" vào việc bức tử VNCH năm 1975?
Lại xin nhường bạn  đọc đưa ra nhận xét và phê bình về chính sách của Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam trước 1975.

Đào Văn

Tài liệu tham khảo:
[1]-Văn Khố BNG-Foreign Relations,p11- The Nixon Doctrine and the Asian reaction
[2]-Văn Khố BNG-Foreign Relations,p53- Conversation:Nixon & Kissinger, April 27, 1971
[3]-Văn Khố BNG- oreign Relations,p112-p118- Memorandum of Conversation1-Beijing, July 9, 1971
[7]- Kilopad.com-Mưu lược Đặng Tiểu Bình-Chg 21-phần7-b:nhốt con gấu bắc cực vào chuồng,
[9]- Văn Khố QG-Pentagon Papers-Chương IV.A-5:Origins of Insurgency-trang 30
[10]- Văn Khố QG-Pen.Papers-Chương IV-B-Counterinsurgency-I: Kennedy Commitments-p.12
[11] - Neil Sheehan -A-Bright-Shining-Lie-Trang 59

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.