Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Ngày Lễ Tình Yêu, Bình Luận Ca Dao Về Tình Yêu Và Gia Đình

14/02/202109:14:00(Xem: 3005)
HINH CHO BAI CUA NGUYEN LE
Cà Mau ngày Tết. (hình Nguyễn Lễ)

Số là tôi có cái may từ nhỏ đã được nghe rất nhiều câu ca dao trong lời hát ru từ những người xung quanh từ dưới quê cho tới thị thành. Nghe riết rồi thuộc, rồi thấm hồi nào không hay, rồi lâu lâu lôi ra nghiền ngẫm: ‘sao ông bà mình hồi xưa hay vậy ta? Nói câu nào trúng câu đó!’ Sẵn sắp đến ngày lễ Tình Yêu tự dưng trong đầu tôi ào ạt tuôn ra mấy câu ca dao về tình yêu-hôn nhân-gia đình, tôi xin ghi lại ra đây để biết thêm về tâm lý, suy nghĩ, tình cảm của ông bà ta thuở trước và nhất là để học hỏi từ một ‘tàng thư về hôn nhân-gia đình’ mà người xưa đã đúc kết.

 

Thể loại này bao la mà tôi chỉ biết một tí một tẹo nên quý vị nào một bồ một bụng thấy sai sót thì xin chỉ bảo thêm.

 

                     Ví dầu nhà dột cột xiêu

            Muốn đi lấy vợ sợ nhiều miệng ăn 

 

Ko phải lấy vợ về sợ hao cơm tốn gạo mà chỉ vì nhà nghèo quá lấy về sợ vợ khổ  —> chân tình!

 

                Thương nhau xa cũng nên gần

         Đừng nên tham phú phụ bần khó coi

 

Nhắn ai đó đừng ngó chỗ giàu sang mà bỏ chốn bần hàn, quên tình tấm mẳn để sau này hối không kịp.

 

               Thương nhau duyên phận thì thôi

                Của thì như nước hồ vơi lại đầy

 

Phải duyên phận thì mới ăn đời ở kiếp,  còn của nả thì lúc vầy lúc khác, quan trọng là nhìn người chứ đừng nhìn của vì người tạo ra của.

 

                   Thò tay mà bứt cọng ngò 

            Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ

 

Anh nào mà làm bộ ngó lơ thì chắc là thương đứt ruột rồi, nhưng quan trọng là phải biết là lơ thiệt hay lơ giả đò. 

 

                Dây tơ hồng chửa se đã mắc

        Rượu quỳnh tương chưa nhấp đã say

 

Rượu chưa nhấp mà đã say, này là tình cảm say sưa đắm đuối, sinh ra để dành cho nhau, đã mắc vào thì gỡ mấy cũng không ra. 

 

                    Sông dài cá lội biệt tăm

     Phải duyên chồng vợ, ngàn năm vẫn chờ 

 

Đời người được mấy chục năm mà đợi đến ngàn năm? Thế mới biết hai chữ nhân duyên có sức dời sông lấp bể như thế nào.

 

               Chàng đi cho thiếp theo cùng 

      Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

 

Một khi đã thương thì một lòng một dạ đi theo, chỉ cần được ở bên cạnh thì cực khổ gì cũng chẳng sá, nguy hiểm chi cũng chẳng màng. 

 

                Trắng da vì bởi phấn dồi

          Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa

 

Phấn dồi mưa cái trôi hết nhưng có ngồi chợ trưa thì mới ‘nuôi đủ năm con với một chồng’ như Tú Xương trải từng tấc lòng ‘thương vợ.’

 

                Trai khôn tìm vợ chợ đông 

       Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân 

 

Bí kíp này thời nay hơi trật nhịp vì mấy nàng đi chợ thì ít mà đi siêu thị thì nhiều, còn mấy chàng còn ai xông pha lằn tên mũi đạn nữa? 

 

             Tay bưng dĩa muối chấm gừng 

     Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

 

Vợ chồng ăn ở với nhau cái tình cái nghĩa sâu nặng ghê lắm, như dĩa muối mặn chát với củ gừng thiệt cay vậy mới thấm, mới nhớ đời.

 

               Râu tôm nấu với ruột bầu 

    Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

 

Món ăn ‘huyền thoại’ thời nay mấy người được nếm? Mạnh bạo đề xuất các đôi mới cưới nấu món này ăn thử để xem có ngon thiệt không?

 

               Chim quyên ăn trái nhãn lồng 

      Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi 

 

Cha mẹ không quen hơi con cái, con cái lớn lên không còn hơi cha mẹ, anh chị em ko ai biết hơi ai, chỉ có vợ chồng mới quen hơi - ông bà ta thiệt tâm lý!

 

                Sông sâu sào vắn khó dò

       Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa

 

Đâu phải cuộc tình nào cũng tròn vẹn. Có những người thương nhau mà không đến được với nhau vì ràng buộc, trách nhiệm và định kiến.

 

                Má ơi đừng gả con xa

       Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu

 

Câu này thời nay mấy người thấm, nhưng cứ tưởng tượng thời xưa đò ngang cách trở, xe cộ không có, lấy chồng xa là mất luôn đường về.

 

                Lấy vợ thì lấy liền tay

        Chớ để lâu ngày hàng xóm gièm pha

 

Sức mạnh dư luận thời xưa ghê thật? Mà tính dân mình hay nhòm ngó nên đã đi hỏi vợ mà không cưới ngay thì dễ sinh điều dị nghị.

 

                  Ra đi mẹ có dặn dò

         Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân

                  Chớ nghe tiếng ngọt lời ngon 

         Sa chân lỡ bước, bà con chê cười 

 

Lời khuyên dành cho các cô gái mới lớn không bao giờ cũ, kỵ nhất là những lời đường mật rót vào tai, dễ nhắm mắt đưa chân vào nơi sa ngã.

 

              Chiều chiều ra đứng ngõ sau

        Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều 

               Tai nghe bìm bịp kêu chiều

        Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

 

Ai biểu lấy chồng xa? Cứ nghĩ từ giờ đến khi cha mẹ mất còn mấy lần gặp nữa thì ruột nào mà chẳng đau ko những 9 mà tới 10 chiều?

 

                Chim đa đa đậu nhánh đa đa

         Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa

                 Lỡ mai cha yếu mẹ già

         Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng?

 

Đúng là lấy chồng xa ngày xưa thảm thật sự. Một bước ra đi xa mẹ xa cha là đi luôn không có ngày về. May là ngày nay không còn cảnh đó nữa. 

 

               Gió đưa bụi chuối sau hè 

              Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ 

 

Khi đã mê nhân tình, quên nhân nghĩa thì một bè con thơ cũng bỏ chứ đừng nói người vợ đầu ấp tay gối. Sức mạnh của tiểu tam là có thật! 

 

               Ví dầu tình bậu muốn thôi

             Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

 

Cái này mới ác nè. Đã muốn bỏ vợ lại còn đi gieo tiếng xấu cho vợ để lấy cớ bỏ nữa. Ăn ở sao mà đoản hậu. Chồng vậy bỏ sói nó tha cho rồi.

 

Trong một hồi tôi “bê” các câu ca dao tả đủ các tình huống từ lúc yêu  nhau, cưới nhau, sống với nhau, và cả trong trường hợp xấu nhất là ... bỏ nhau nữa. Mong là độc giả sẽ thưởng thức được cái đẹp và đa dạng của ca dao miền quê Việt của chúng ta.

 

Nguyễn Lễ

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
Ông Tri vung tay hất đổ chén canh, vỡ nhiều mảnh trên nền nhà, tung toé mùng tơi và tôm khô. Ông đưa tay lên lần thứ hai, muốn tát vào mặt con rể. Anh nắm tay ông lại. Lòng tung tóe giận dữ. Ánh mắt giết người làm ông sợ hãi. Rụt tay lại. Quay mặt vào vách. Anh hít một hơi đầy, thở mạnh ra. Xả cơn giận. Đứng lên đi dọn dẹp. Những mảnh chén vỡ làm anh nhớ lại lần đầu tiên khi anh đến nhà thăm Lài, ông Tri đã giận dữ đập vỡ tách trà vì không muốn con gái ông quen biết với người nhìn bề ngoài trông giống du đảng, tóc dài và ăn mặc không tiêu chuẩn.
Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau.
Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.
Nhà thơ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông. Ông là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lập gia đình với nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) thường gọi là bằng Thành Chung. Ông được học bổng tiếp tục đèn sách để thi Tú Tài bản xứ thì “Thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ. Năm 1943, ông xuất bản tập văn xuôi Đám Ma Tôi nhưng sau đó nổi tiếng với bài thơ Kỳ Nữ. Năm 1944, nhà thơ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, ông ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, và năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học.
Cha anh, ông Thụ, là một người trung bình về mọi phương diện. Ưa thích quyền lực nhưng không thỏa mãn. Quyền lực mà ông có nhiều nhất là đối với vợ con. Đứa con trai duy nhất, “Em à, số vợ chồng mình thật xui. Có một đứa con mà nó lại sống ở trên mây.” _”Còn hơn nó chết à?” Thú vui lựa chọn của ông Thụ là tập bắn súng. Súng trường, súng lục, súng nào ông bắn cũng giỏi. Đã đoạt một số giải thưởng bắn thi. Và dĩ nhiên, ông muốn truyền tài năng này cho con trai. Năm 17 tuổi anh đã đoạt giải quán quân về tầm bắn xa 200 mét. Khi anh đeo dây huy chương trên cổ, tay cầm cái cúp giải thưởng, cha anh đã ôm anh thật chặt, Hơi nóng ấm áp chuyền qua làn áo vải. Ông đã tìm thấy ông và anh đã tìm thấy cha. Tính tình cha con anh có nhiều chuyện khác nhau, từ sở thích đến suy nghĩ. Khi còn nhỏ, anh không thích ăn thịt. Ông ăn thịt bò bíp-tết hai ngày mỗi tuần. Mỗi lần ăn, ông cắt thịt ra từng mảnh nhỏ, bắt anh hả miệng và đút vào. _”Nhai đi.” Cùng một cách ra lệnh, _”Nghĩ đi”, _”Làm đi”, _”Thở đi” _Số
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.