Hôm nay,  

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đi

10/12/202011:47:00(Xem: 4242)


blank


Rời khỏi quê hương, chân ướt chân ráo đến một vùng đất an bình và xa lạ, tôi ngồi thở hổn hển cả năm rồi mới hoàn hồn. Ngó trước – ngó sau: té ra, xứ mình không phải là nơi đầu tiên (hay duy nhất) mà dân chúng phải lũ lượt bỏ của chạy lấy người. 


Thiên hạ đã đi tị nạn từ rất nhiều nơi khác, và lắm kẻ đã đi tự lâu rồi. Tuy thế, tôi vẫn tin rằng không dân tộc nào mà chuyện lánh nạn cộng sản lại nhiêu khê, và lê thê (kéo dài suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác) như đám dân Việt cả.


Sau khi Hiệp Định Geneve 1954, gần triệu người miền Bắc ào ạt di cư vào Nam. Mẹ già kể lại là bà quang ghánh hai đầu: một đầu là tôi (*) với người chị kế, và một chú cún con; đầu kia lủ khủ bao bị, mùng mền, áo quần, gạo muối… Sở dĩ phải có thêm con chó nhỏ vì chị tôi từ chối rời nhà, nếu không cho nó đi cùng. 

Những kẻ chậm chân – ra đi kể từ ngày ba trăm lẻ một, sau thoả hiệp đình chiến –  không còn được coi là dân di cư mà bị coi là “kẻ vượt tuyến.” Chỉ qua tên gọi cũng đủ thấy số phận của họ gian nan hơn hẳn. Đoàn Thêm (trong cuốn Việc Từng Ngày: 1954 – 1964, Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1966) ghi nhận: 

  • 4 tháng 10, 1956: 3 người liều chết bơi qua sông Bến Hải vào Nam tìm tự do. 

  • 19 tháng 11, 1956: 19 người dân Nghệ An dùng ghe vượt biển vào Nam.

  • 8 tháng 4, 1957: 41 người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam.

  • 28 tháng 10, 1957: 2 sinh viên vượt tuyến vào Nam … 

  • 11 tháng 2, 1958: 14 người xuyên qua Lào đến được miền Nam. 

Thảm kịch “vượt tuyến” khiến dư luận xôn xao nhất (có lẽ) là trường hợp của Vũ Anh Khanh. Nhà thơ Viên Linh tường thuật:

“Sau 20 tháng 7, 1954, ông tập kết ra Bắc, nhưng rồi chỉ ba năm sau ông quyết định bơi qua sông Bến Hải trở lại quê hương bản quán, thì một mũi tên tẩm thuốc độc từ bờ Bắc bắn theo ông. Thi sĩ đã không tới được bến bờ tự do, Bến Hải đã trở thành một dòng sông vĩnh biệt.”


Hơn hai thập niên sau, sau khi “miền Nam được hoàn toàn giải phóng” không lâu –  bắt đầu từ cuối thập niên 1970 – Vịnh Thái Lan lại trở thành “vùng biển vĩnh biệt” của hằng trăm ngàn người dân Việt khác. Những kẻ sống sót được nhân loại mệnh danh là boat people vì họ vượt biên bằng thuyền. 


Thuyền nhân có hai loại: bán chính thức và chui. Trong tập thể đi chui, thỉnh thoảng, vẫn có lẫn những kẻ đi hôi hay đi ké. Tôi không có vàng để nộp cho chủ ghe, cũng không đủ trơ tráo (hay táo bạo) để đi hôi nên chọn một phương cách thứ hai: đi ké. 


Rời trại cải tạo ra, tôi về đến Đà Lạt và được biết mình chỉ được phép sống ké (và sống tạm) ở nhà thôi vì không có tên trong sổ hộ khẩu. Thế là tôi đi nữa, dù chưa biết đi đâu. Loay hoay mãi rồi tôi tìm đến một thành phố ven biển. Sau một thời gian bán bánh tiêu, và chạy xe lôi, tôi lân la làm quen (rồi xin phụ việc) cho những người dân ở một xóm chài. 


Tôi không phải là tài công, không phải tài cải (thợ nấu) cũng chả phải là thợ câu hay thợ lưới … mà chỉ là thợ vịn nên được giao cho mọi việc lặt vặt dưới ghe: quăng phao, kéo đục, lựa tôm, lựa cá, dọn dẹp, lau chùi … Tôi làm tất tần tật mọi thứ, và không hề đòi hỏi tiền bạc hay thù lao gì ráo trọi –  ngoài những bữa cơm thanh đạm.


Ban ngày, tôi còn tình nguyện coi ghe từ sáng tới chiều vì lên bờ cũng chả có chỗ đi. Biết đi đâu khi túi không có một đồng, và cũng chả có một tờ giấy tùy thân để lận lưng. Chỉ lỡ đạp bánh tráng thôi cũng đã đủ phiền rồi; còn nhỡ mà đụng công an thì (ôi thôi) chắc chắn là phiền lắm, phiền lâu và phiền lớn. Lại vào tù thêm lần nữa, dễ như không!


Dân chài vốn hào sảng nên những khi trúng đậm (bất kể cá/tôm) thế nào tôi được kéo lên nhà một ông/bà nào đó để ngồi lai rai ba sợi suốt đêm, khỏi phải ra khơi. Cái gì chớ rượu thì chịu quá nhưng vì chỉ thuộc thành phần nhậu ké nên tôi vẫn thường giữ một thái độ ké (né) cho nó dễ coi: uống vừa, nói ít và chỉ cười (trừ) cho tới sáng.


Phần lớn tài công trong vùng đều hành nghề theo thói quen đi biển đã lâu, chứ không mấy ai đã từng lái ghe qua khỏi Hòn Tre và cũng chả mấy người có khái niệm rõ ràng gì về bốn phương tám hướng. Bởi thế, khi bàn rượu rôm rả về chuyện vượt biên – đôi khi – tôi cũng từ tốn góp chút ý kiến về phương giác, và cách xử dụng hải bàn.


Cũng có lúc, tôi dùng ngón tay chấm rượu để vẽ hình mũi Cà Mau (cùng những vùng biển lân cận) và giải thích cho mọi người hiểu tại sao nếu từ Rạch Giá mà muốn qua Thái Lan thì buộc phải đi theo hướng Tây/Nam. Chịch về hướng Tây có thể bị lạc sang Cao Miên. Còn xuôi Nam hẳn thì bị lọt xuống Úc Đại Lợi. Như thế,  sẽ không đủ dầu vì đường rất dài (và cũng rất gian truân) trong khi cả xóm không ai sắm được một cái tầu nào ngon lành cả.


Có lẽ nhờ chút hiểu biết về hải hành mà tui lọt vô mắt xanh của một ông chủ ghe, và được giao cho cầm lái để đi (ké) tới Thái Lan vào mùa Hè 1980. Bốn mươi năm sau, sau khi đã sống đến gần hết cuộc đời của một người tị nạn – vào hôm 17 tháng 6 năm 2020 – tôi tình cờ nghe RFA ái ngại loan tin: “Mười một người Việt Nam vượt biển đi Úc bị bắt giữ ở Đông Timor.”


blank


Họ là những người vượt biên mới nhất theo đường biển, chứ chưa hẳn đã là những kẻ cuối cùng. Đồng bào tôi vẫn tiếp tục ra đi nhưng tuyệt đại đa số lựa chọn nhiều phương cách khác, tùy theo túi tiền và hoàn cảnh. Theo dữ liệu của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) “từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5 triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư.” Đây là một hiện tượng bất thường, theo công luận:

  • Blogger Song Chi: “Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại… Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!”


  • Nhà báo Nguyễn Quang Duy: “Hầu hết người Việt Nam ra đi lặng lẽ như một làn sóng ngầm (còn gọi là ‘bỏ phiếu bằng chân’). Họ gồm ba nhóm đối tượng chính: Một là giới trí thức (và sinh viên), hai là các doanh nhân (giàu có), ba là gia đình các quan chức (thường là tham nhũng). Họ ra đi do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính thường do cảm giác bất an…”


  • Nhà văn Đào Hiếu: “Đất nước đã bị cưỡng đoạt.”


  • T.S  Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin” của những người không muốn “sống gù.” 


  • Thi Sĩ Inra Sara thêm: Làm thế nào đừng phải đi bằng lưng, làm sao không phải dạ dạ vâng vâng bợ trên đạp dưới, để vẫn có thể sống như là sống? Sống, và có thể sáng tạo?

Những bậc thức giả (thượng dẫn) đã nói thế thì kể như là … hết ý rồi. Tôi chỉ dám (trộm) nghĩ rằng trừ lũ cột đèn, dân Việt ai cũng muốn bỏ đi vì tất cả đều chia chung cái tâm cảm của những kẻ chỉ được sống tạm (hay sống ké) trên mảnh đất quê hương của chính mình. 

Những “bác nông phu vài ngàn năm đứng trên đất nghèo” không hề nao núng nhưng với luật “đất đai là sở hữu của toàn dân” (nên có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào) thì bỗng trở nên hụt hẫng.

Sau khi núi rừng bị khai thác đến trơ trụi (và sau những biến động tàn bạo xẩy ra ở Tây Nguyên (20012004) – Điện Biên (2011) không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng đành phải rời bỏ bản làng. Họ ra đi trong vô vọng và vô định. Người bị bắt lại thì vào tù không có ngày ra; còn kẻ chạy thoát thì đang sống một cách bần cùng ̣(và mòn mỏi) ở hai nước láng giềng: Miên và Thái.

Ngư dân nay không còn “nhìn trùng dương hát câu no lành” như Phạm Duy đã từng mô tả. Mắt trước (mắt sau) họ lấm lét cứ như là kẻ trộm, dù đang thả lưới trong hải phận Việt Nam. Đã thế, họ lại còn “được” Đảng và Nhà Nước “trao cờ tổ quốc để vươn khơi bám biển” thay cho … lực lượng Hải Quân!

Ngay cả những vị Đại Biểu Quốc Hội (cơ quan quyền lực cao nhất nước) cũng chỉ là những kẻ ngồi ké né ở nghị trường – với cái quốc tịch thứ hai dấu kín trong túi áo, cùng với tâm trạng thấp thỏm – và sẵn sàng để chuồn, ngay khi có biến!  

Giới lãnh đạo cũng thế. Cũng đều hối hả vơ vét  (“không từ một thứ gì”) như những kẻ đang trên một chuyến tầu vét cuối cùng. Thái độ nhấp nhổm của mọi giới “tinh hoa” khiến chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan không khỏi băn khoăn: “Đi định cư ở nước ngoài cả, đất nước này ai xây dựng đây?”


Bao giờ mà cái chế độ hiện hành còn tồn tại ở Việt Nam thì xây dựng, xem chừng, là điều bất khả. Còn có ai thiết tha chi đến một mảnh đất mà mình chỉ được quyền sống ké (hay sống tạm) thôi.


T.N.T


(*) Dù chào đời tại Sài Gòn trước Hiệp Định Geneve, tôi vẫn “có mặt” trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam hồi 1954. Đây là chuyện hơi khó hiểu, và cũng hơi dài dòng nên xin được giải bầy sau – khi tiện dịp.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.