Hôm nay,  

Bản Tuyên Ngôn Của Người Lính

16/03/202010:06:00(Xem: 4398)

                               

                                                                                         

                                                           

Vô cùng thương tiếc Trung tá Nguyễn Văn Đồng

Anh từng ghé lại Cau Lạc Bộ anh nói chuyện với anh em với tất cả hào khí của người lính. Anh khẳng định:”Sống là chiến đấu, là chấp nhận thử thách”. Đôi khi đời không hiểu ta, ta cũng phải ôm nó vào lòng, ôm chặt nó, há miệng cắn vào nó như xích của tank cạp lấy mặt đường, bùn lầy,  tiến về phía trước, tiến về mục tiêu đã qui định. Dù cho trước khi đến được mục tiêu qui định chúng ta đã phải vượt qua những trận phục kích, những bãi mìn, mất hết đôi chân, mất sừc chiến đấu, có thể ta gục ngã. Nhưng các bạn ta, các thế hệ trẻ sau ta, sẽ tiếp tục khai phá mở đường. Anh nói: “đã là lính ai cũng phải chịu chơi, chấp nhận thử thách và dư biết thử thách không bao giờ thừa. Kẻ nào không chịu chơi kẻ đó coi như bỏ đi- Qui ne risque pas n’a rien!..”. Nói xong, anh cười vang lên. Vang lên cả cơ quan, vang lên trong Cau Lạc Bộ. Sau nhiều năm, anh em không quên được tiếng cười hào sảng của anh, người lính Khóa 5-Trường Võ Bị Quốc Gia ĐaLạt.

      Và bây giờ tại bịnh viện, anh nằm im bất động, thở dưỡng khí mệt nhọc. Bờ vai anh rộng, da mặt anh tái xanh, anh nấc lên từng hồi. Anh đang chiến đấu với thần chết. Anh có nghe tiếng khóc của Nga không anh? Nga, người nữ nhân viên xã hội tư vấn tâm thần mà anh và chị thường gọi là ‘Bé Nga’. Vâng, bé Nga đang nắm lấy bàn tay anh và uốn nắn từng ngón tay khô cằn của anh. Nga, Đại úy Nguyễn Văn Danh, người bạn tù của anh, và tôi đến thăm anh đây. Anh đang tập trung chiến đấu với tử thần. Chúng tôi nhìn anh hấp hối nhớ lại Tổ quốc trong cơn thập tử nhất sanh 30 tháng Tư -75. Biết bao nhiêu chiến đấu trong tuyệt vọng của chúng ta để giành lại Sàigòn. Nga vẫn nắm lấy tay anh, cúi xuống gần anh nghe anh thở dưỡng khí mệt nhọc, mắt cô mờ cả lệ. Hình như Nguyễn Văn Danh cũng đang khóc. Danh đang bám lấy thành giường, có nắm lấy cổ chân anh. Nhưng là sao được bây giờ. Làm sao ngăn chận được sự ra đi của anh. Trái nào chín trước, rụng trước. Anh đã 75 rồi! Tôi cúi xuống ôm bờ vai rộng lớn của anh. Tôi nhin qua cửa sổ, ngoài trời Chicago đang lạnh dưới không độ F. Nắng vẫn chiếu sáng trên tuyết trắng lạnh lùng. 

    Chúng tôi ra về thành thật mong anh đi sớm. Thương anh chống trả mệt nhọc quá. Trong cuộc chiến đấu này một mình anh gánh chịu. Không một ai san sẻ với anh được. Trông anh vật vã, cô đơn quá. Chúng ta chiến đấu cô đơn quá phải không anh? Nhất là sau tháng Giêng-1973. Tôi nhớ lại những lời phát biểu đầy phẫn nộ của anh tại những buổi họp điều trị tâm thần tập thể:Khốn nạn thay, trước 23-1-73 chúng ta chưa từng “nhận” một viên đạn của kẻ thù. Nhưng sau đó chúng ta nhận những nhác chém từ sau lưng. Chúng ta đã bị phản bội tận xương tủy. “Chúng ta mất Miền Nam là vì chúng ta bị người bạn Đồng Minh phản bội. Chúng ta chưa hề thất trận…”. Những buổi họp Cau Lạc Bộ sau này, các anh  em thường nhắc lại câu nói đó của anh và coi đó như là “Bản Tuyên Ngôn Của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa”  sau tháng giêng năm 1973

     Sáng nay, ngày 6-2-2002 Trần Quốc Bảo Định đột xuất đến thăm tôi tại văn phòng rất sớm lúc 9 giờ sáng. Định mang tặng tôi tập Hồi ký của ông Trần Văn Khê. Định có hỏi thăm anh ra sao rồi?  Anh còn nhớ Trần Quốc Bảo Định chớ anh? Định là người bạn tù của anh ở khám lớn Chí Hòa đấy. Anh ấy uống vội chén trà nóng với tôi rồi hối hả đi làm. Tôi mở Tập Hồi Ký của ông Trần Văn Khê ra xem chợt thấy bức thư của Định gửi cho tôi nói về anh:

 

 Kính BS Thể

Tôi cám ơn Bác sĩ đã nhắc tôi đến thăm ông già Đồng. Tôi cảm thấy ngậm ngùi cho thân phận chúng ta. Ông già Đồng từ ngày qua Mỹ đến lúc nằm liệt như hôm nay, ông Già đã đi cày ở Uptown/Chicago thật mệt nhọc. Mà không đi cày cũng không được. Nhu cầu cuộc sống đòi hỏi ông Già. Tôi đã đến thăm ông già Đồng của chúng ta. Ông già nằm bất động trên giường nệm với đầy đủ dụng cụ y khoa tối tân của Chú Sam. Nếu so sánh với đất Tượng Quận của Annam ta, thì ông Già thật sung sướng, anh ạ! Ông Già còn thật sung sướng hơn người bạn tù của ông tại khám lớn Chí Hòa, Đại tá Trần Vĩnh. Đại tá Trần Vĩnh vào tù học tập cải tạo, bị mù lòa và trong những năm tháng gần đi về với ông bà, đại tá Trần Vĩnh nằm trần truồng ở một chỗ, và nói theo kiểu Đức Tin thì ông đã được mặc khải nói tiên tri tức là những ai muốn biết ngày nào được thả tù, trở về với gia đình thì đến bên chỗ nằm hôi hám của Đại tá Trần Vĩnh xin ông bói cho xem thử. Đại tá Trần Vĩnh đã chết trong ngục tù Chí Hòa…”.

   Nghe xong bức thư chắc anh không đồng ý với người bạn tù của anh, Trần Quốc Bảo Định, vì anh chủ trương không bao giờ tự an ủi mình bằng cách nhìn vào số phận hẩm hiu của bạn bè hay của người khác. Như anh đã từng nói: biết đâu Đại tá Vĩnh đã nghĩ thà chết như ông vẫn cón hơn chúng ta sống nhăn răng vô liêm sĩ với cộng sản, hay sống lầm lũi trong thân phận lưu vong tù dày trên đất nước người. Anh đã từng nói với anh em trong Cau Lạc Bộ anh tìm thấy ở cái chết bi thương của luật sư Đại tá Trần Vĩnh như giá trị lịch sử của một khúc ngoặt  của tổ quốc hơn là phần số riêng của ông ta…

    Tôi đến chào vĩnh biệt anh tại Nhà Quàn. Rất mừng các anh em trong ‘Cau Lạc Bộ’ có mặt đông đủ hết. Có người đem cả vợ con đến vĩnh biệt anh. Tại đây tôi cũng gặp người bạn tù của anh tại khám lớn Chí Hòa, Bác sỹ Đại tá Nguyễn Minh Châu-Cục phó Cục Quân Y-QĐVNCH trước 75. Nom ông ấy yếu hẳn đi, có lẽ từ ngày ông ấy nghe tin anh nhập viện…Tôi quì xuống bên cạnh quan tài anh, cầu nguyện. Tôi thấy đấng Christ treo mình trên Thánh giá, tôi nhớ câu ai nói: “Đấng Christ chết cho tội ác của chúng ta-Christ dies for our sin”- Không hiểu đấng Christ có chết cho tội ác của những người cộng sản chuyên chính vô sản không anh nhỉ? Đấng Christ có chết cho tội ác của những người bạn đồng minh phản bội chúng ta không anh?

   Tôi cúi xuống thật gần nhìn lại gương mặt anh lúc đó hài hòa siêu thoát vô cùng! Anh đã tha thứ cho tất cả phải không anh? Anh tha thứ cho chiếc ‘koòng’ bằng thép siết chặt tay anh rướm máu. Anh đã tha thứ cho các nhà tù, trại cải tạo cộng sản mà anh phải đi qua. Anh tha thứ mùi hôi hám và bóng tối thê thảm của các Cacho trong khám lớn Chí Hòa. Anh cũng tha thứ cho những năm tháng nhọc nhằn của kiếp tù đày lưu vong xứ người… Mong Anh ra đi thảnh thơi không vướng bận.

    Tôi từ giả anh ra về. Tôi nghe lời cầu kinh của anh em sau lưng tôi, lời cầu nguyện của anh em mong anh sớm về Nước Chúa.

     Anh sinh tại Hà Nội, tốt nhiệp Võ bị Quốc Gia ĐaLạt, Khóa 5. Nước Mỹ đối với anh là đất trích. Thương tiếc anh vô hạn. Người trai anh dũng của thời loạn. Chí lớn chưa thành, anh đã vội bỏ anh em ra đi. Tôi quên thế nào được giọng đọc thơ san sảng của anh tại ‘Cau Lạc Bộ’:

                             “Từ đô mang gươm đi mở cõi

                            Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”

   Đào Như

   Bác sỹ Đào Trọng Thể

   30-4-2002


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.