Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Nhà Thơ Khế Iêm Thăm Tòa Soạn Việt Báo Tặng Số Báo Đặc Biệt Về Họa Sĩ Duy Thanh và Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền

14/02/202000:00:00(Xem: 2896)
Bia bao Tho Tan Hinh Thuc
Hình bìa báo giấy Thơ Tân Hình Thức số 58.(photo VB)

 

GARDEN GROVE (VB) – Sáng Thứ Ba, ngày 11 tháng 2 năm 2020, văn phòng tòa soạn tuần báo Việt Báo, 10517 Garden Grove Blvd., thành phố Garden Grove, CA 92840 có nhân duyên lành đón tiếp nhà thơ Khế Iêm, Chủ Bút Tập San Thơ Tân Hình Thức, đến thăm và tặng sách.

Đó là cuốn báo giấy số 58 đặc biệt để tưởng nhớ họa sĩ Duy Thanh và thi sĩ Thanh Tâm Tuyển do Câu Lạc Bộ Thơ Tân Hình Thức ấn hành, theo nhà thơ Khế Iêm cho biết trong buổi trò chuyện ngắn tại văn phòng mới của tòa soạn tuần báo Việt Báo.

Trong cuốn báo đặc biệt này có bài của nhà thơ Khế Iêm viết về họa sĩ Duy Thanh và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Một bài khác của nhà văn Nguiễn Ngu Í viết về họa sĩ Duy Thanh được trích lại từ báo Bách Khoa số 148 năm thứ 7 ngày 1 tháng 3 năm 1963.

Một bài khác cũng trong số báo này còn đặc biệt hơn. Đó là bài “Kinh Nghiệm Sáng Tác Trong Tù” của chính thi sĩ Thanh Tâm Tuyền viết ngày 21 tháng 2 năm 1993 tại Mỹ. Về bài viết này của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ Khế Iêm kể rằng ông đã được thi sĩ Thanh Tâm Tuyền gửi tặng cho bài viết này vào ngày 22 tháng 2 năm 1993, với lời ghi chú “Đọc cho đỡ buồn.” Theo nhà thơ Khế Iêm cho biết thì đây là bài viết chưa từng được phổ biến, nghĩa là số báo đặc biệt này là nơi đăng bài này lần đầu tiên.

Trong bài viết của ông, nhà thơ Khế Iêm đăng bài thơ “Thử Vẽ Phác Chân Dung Một Thi Sĩ” để nhớ về thi sĩ Thanh Tâm Tuyền mà ông đã làm năm 1986. Nhà thơ Khế Iêm kể rằng ông đã gửi tặng nhà thơ Thanh Tâm Tuyền bài thơ này trước khi ông đi vượt biên vào năm 1988 và qua Mỹ định cư năm 1990. Bài thơ như sau:

 

Thử Vẽ Phác Chân Dung Một Thi Sĩ

 

Thở dồn dập phôi pha xưa mắt rối

Gió rêu

Ngày siết nhớ nụ cười đáy hồ tắt

Nắng hú

Khỏa thân người

Nhà thân trôi

Lời xẫm xanh lời

Hoài hủy nói

Khói ngốc nghếch đùa điên môi mưa

Sần sủi thổi

Ngồi man mác rong

Thuốc lá cà phê và thi sĩ.

 

Sài gòn 1986

 

Nhà thơ Khế Iêm viết về họa sĩ Duy Thanh, “Tôi gặp ông vào khoảng mùa Thu năm 1972, khi mang bản thảo tập kịch Hội Huyết nhờ ông vẽ bìa (tập kịch sau năm 1975 tôi cũng mất, chỉ còn mấy cái hình bìa trên online). Ông đọc và vẽ bìa, rồi nói tôi ngồi để ông phác thảo vài nét chân dung. Sau đó có lần tình cờ tôi gặp ông củng đi với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (lúc đó tôi chưa quen) trên đại lộ Lê Lợi, ngang nhà sách Khai Trí, rồi nghe nói ông xuất ngoại, đi Okinawa. Và ông không trở về nữa, vì biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Sau năm 1990, tôi có lên nhà thăm ông một lần tại San Francisco, California, và ông có đưa cho tôi một số bức vẽ trắng đen.”

Khi được hỏi hiện nay anh đang làm gi, nhà thơ Khế Iêm vừa cười vừa nói “retired.” Phóng viên Việt Báo tò mò hỏi tiếp: có nghĩa là không làm thơ nữa? Nhà thơ lại cười và nói “giữ cháu.”

Nhà thơ Khế Iêm như sực nhớ điều gì đó vui vui và anh chia xẻ ngay rằng là mấy tuần trước Tết vừa rồi anh có về Việt Nam và thật rất tình cờ cũng là sự kiện rất bất ngờ đối với anh là cuốn sách “Vũ Điệu Không Vần” dày 600 trang của anh đã được in và ra mắt tại VN ngay đúng lúc anh có mặt trong nước. Nhà thơ Khế Iêm cho biết cuốn “Vũ Điệu Không Vần” là cuốn sách chứa đựng toàn bộ kiến thức về thơ Mỹ.

Độc giả muốn biết thêm về Câu Lạc Bộ Thơ Tân Hình Thức có thể vào thăm trang mạng www.thotanhinhthuc.org

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
Ông Tri vung tay hất đổ chén canh, vỡ nhiều mảnh trên nền nhà, tung toé mùng tơi và tôm khô. Ông đưa tay lên lần thứ hai, muốn tát vào mặt con rể. Anh nắm tay ông lại. Lòng tung tóe giận dữ. Ánh mắt giết người làm ông sợ hãi. Rụt tay lại. Quay mặt vào vách. Anh hít một hơi đầy, thở mạnh ra. Xả cơn giận. Đứng lên đi dọn dẹp. Những mảnh chén vỡ làm anh nhớ lại lần đầu tiên khi anh đến nhà thăm Lài, ông Tri đã giận dữ đập vỡ tách trà vì không muốn con gái ông quen biết với người nhìn bề ngoài trông giống du đảng, tóc dài và ăn mặc không tiêu chuẩn.
Măc dầu câu kết của hai bài thơ của họ Thôi và ho Lý đều kết thúc bởi câu “sử nhân sầu” Nhưng cái buồn của họ Thôi, cái buồn của người hiểu thế sự. Cái buồn của họ Lý là cái buồn tích cực nhập thế. Họ Thôi thì nhớ về quê hương còn họ Lý thì nhớ thủ đô Tràng An. Như vậy xem ra mối sâu của Thôi Hiệu và của Lý Bạch không giống nhau. Hai bài thơ có những ưu điểm riêng, bổ túc cho nhau.
Bài thơ Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường vào đầu thế kỷ XIX của khuyết danh chỉ đề cập tổng quát, được đề cập nhiều (Sau nầy có bài thơ của Nguyễn Bính nhưng không có gọi tên phố phường). Tác phẩm Hà Nội 36 Phố Phường của nhà văn Thạch Lam (1910-1942) ấn hành năm 1943 được phổ biến rộng rãi, được mọi người biết đến nếp sống, sinh hoạt… của Hà Nội xa xưa.
Nhà thơ Đinh Hùng sinh ngày 3/7/1920, làng Phượng Dực tỉnh Hà Đông. Ông là con út trong gia đình gồm sáu anh chị em: anh cả là Đinh Lân, các chị là Loan, Yến, Hồng, Oanh. Chị Đinh Thục Oanh lập gia đình với nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Đinh Hùng theo bậc tiểu học tại trường Sinh Từ, rồi bậc trung học tại trường trường Bưởi, Hà Nội. Và sau khi đậu bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) thường gọi là bằng Thành Chung. Ông được học bổng tiếp tục đèn sách để thi Tú Tài bản xứ thì “Thần Ái tình đã hiện đến cùng một lúc với sự thành công đầy hứa hẹn” (theo lời kể của ông anh rể Vũ Hoàng Chương), khiến ông bỏ ngang để đi viết văn, làm thơ. Năm 1943, ông xuất bản tập văn xuôi Đám Ma Tôi nhưng sau đó nổi tiếng với bài thơ Kỳ Nữ. Năm 1944, nhà thơ Vũ Hoàng Chương cưới bà Thục Oanh đưa về Nam Định sinh sống, ông ở lại Hà Nội và cho ra đời giai phẩm Dạ Đài, và năm này, ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thanh về Thái Bình dạy học.
Cha anh, ông Thụ, là một người trung bình về mọi phương diện. Ưa thích quyền lực nhưng không thỏa mãn. Quyền lực mà ông có nhiều nhất là đối với vợ con. Đứa con trai duy nhất, “Em à, số vợ chồng mình thật xui. Có một đứa con mà nó lại sống ở trên mây.” _”Còn hơn nó chết à?” Thú vui lựa chọn của ông Thụ là tập bắn súng. Súng trường, súng lục, súng nào ông bắn cũng giỏi. Đã đoạt một số giải thưởng bắn thi. Và dĩ nhiên, ông muốn truyền tài năng này cho con trai. Năm 17 tuổi anh đã đoạt giải quán quân về tầm bắn xa 200 mét. Khi anh đeo dây huy chương trên cổ, tay cầm cái cúp giải thưởng, cha anh đã ôm anh thật chặt, Hơi nóng ấm áp chuyền qua làn áo vải. Ông đã tìm thấy ông và anh đã tìm thấy cha. Tính tình cha con anh có nhiều chuyện khác nhau, từ sở thích đến suy nghĩ. Khi còn nhỏ, anh không thích ăn thịt. Ông ăn thịt bò bíp-tết hai ngày mỗi tuần. Mỗi lần ăn, ông cắt thịt ra từng mảnh nhỏ, bắt anh hả miệng và đút vào. _”Nhai đi.” Cùng một cách ra lệnh, _”Nghĩ đi”, _”Làm đi”, _”Thở đi” _Số
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.