Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1888 (tức ngày 29 tháng 4 năm Mậu Tý), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nơi có núi Tản sông Đà. Thân sinh ông là Nguyễn Danh Kế, đỗ Cử nhân, từng giữ chức Ngự sử trong kinh. Mẹ là Lưu Thị Hiền, cũng có sách ghi là đào Nghiêm, vốn là một đào hát, nổi tiếng tài sắc, giỏi văn thơ.
Vốn dòng khoa bảng tài hoa, Tản Đà nổi tiếng thi phú từ nhỏ, nhưng hai lần đi thi đều hỏng, từ năm 28 tuổi, Tản Đà quyết định sống bằng nghề cầm bút, vào Nam ra bắc làm báo: viết tuồng cho các đoàn hát, làm chủ bút Hữu Thanh tạp chí, lập nhà sách nhà in Tản Đà thư cục, sáng lập An Nam Tạp chí, số 1 ra ngày 1/7/1926. Đây là tờ tạp chí đầu tiên chuyên về văn học tại Việt Nam.
Báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn nhiều lần vẽ hí hoạ chê Tản Đà là thi sĩ theo kiểu “tửu nhập thi xuất.” Bị đả kích là chán đời, yếm thế, ông nói trongmột lần diễn thuyết để trả lời Phạm Quỳnh, “Người mà không biết chán đời thì có khác gì lợn.”
Những năm cuối đời, Tản Đà sống nghèo khổ và báo Ngày Nay mời ông dịch Đường thi trong hai năm 1937 -1938. Nhờ vậy mà có bản dịch Hoàng Hạc Lâu tuyệt tác. Thi sĩ mất vì bạo bệnh ngày 17 tháng 6 năm 1939, khi mới 51 tuổi.
Khai Bút Năm Canh Thân 1920
Năm nay tuổi đã ba mươi hai
Ta nghĩ mà ta chẳng giống ai.
Khắp bốn phương trời không thước đất,
Địa cầu những muốn ghé bên vai!
Khai bút năm Tân Dậu 1921
Năm nay tuổi đã ba mươi ba
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta.
Lo nước, lo nhà, lo thế giới,
Còn thêm lo nợ, nghĩ chưa ra!
Mậu Thìn xuân cảm
Cuộc thế xoay quanh đất một hòn
Sông chưa cạn đó, núi chưa mòn.
Dân hai nhăm triệu, ai người lớn ?
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Cám cảnh khói mây mờ mặt biển,
Lo đời sương tuyết bạc đầu non.
Ngày Xuân Tương Tư
Trách cái tằm xuân nhả mối tơ
Làm cho bối rối mối tương tư.
Sương mù mặt đất người theo mộng,
Nhạn lảng chân trời kẻ đợi thư.
Nghìn dặm dám quên tình lúc ấy
Trăm năm còn nhớ chuyện ngày xưa.
Tương tư một mối hai người biết
Ai đọc thơ này đã biết chưa?
Ngày xuân thơ rượu
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa!
Công danh hai chữ mùi men nhạt,
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Mạch nước sông Đà tim róc rách,
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi,
Còn mãi xuân, còn rượu với thơ.
Gặp xuân
Gặp xuân ta giữ xuân chơi,
Câu thơ chén rượu là nơi đi về.
Hết xuân, cạn chén, xuân về
Nghìn thu nét mực xuân đề vẫn xuân!
Vui Xuân
Tin xuân đến ngọn cây đào
Bảo cho hoa biết ra chào chúa xuân.
Mỗi năm xuân đến một lần,
Thiều quang chín chục xoay vần chẳng sai.
Ngày xuân còn mãi không thôi
Tuổi xuân ai dễ xanh rồi lại xanh?
Đường mây những khách công danh,
Mày râu cụ lớn thay hình thanh niên.
Thành sầu mấy ả Khâm Thiên,
Én oanh dẫn lối con thuyền Tần Dương.
Làng văn mấy bạn văn chương
Bút hoa án tuyết, hơi sương mái đầu.
Tiểu thư ai đó tựa lầu
Thơ đào chưa vịnh, mai hầu bảy ba.
Trời xanh trời cũng khi già
Xuân xanh xanh mãi đâu mà hỡi ai!
Gặp xuân ta hãy làm vui,
Kẻo nay xuân đến kẻo mai xuân về.
Vui xuân rượu uống thơ đề.
Đời Đáng Chán
Người đời thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn một ngày dài ghê!
Còn ai ai tỉnh, ai mê,
Những ai thiên cổ đi về những đâu ?
Đời đáng chán hay không đáng chán ?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm.
Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim
Mắt xanh trắng đổi nhầm bao khách tục.
Giang hà nhật dạ nhân giai trọc
Thiên địa lô trung thực hữu tình.
Đón đưa ai gió lá chim cành, (*)
Ấy nhân thế phù sinh là thế thế.
Khách phù thế chưa dứt câu phù thế
Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu.
Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.
Châu Nam Hải, thuyền chìm sông Thúy Ái
Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang .
Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tất liệt,
ai đài trang,
Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ.
Đời đáng chán biết thôi là đủ
Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.
Nên chăng nghĩ lại kẻo lầm.
1922
Xuân ơi xuân hỡi!
Vắng xuân lâu ta vẫn đợi chờ mong
Trải bao nhiêu ngày tháng hạ, thu, đông
Ròng rã nỗi nhớ nhung, xuân có biết?
Khứ tuế xuân qui, sầu cửu biệt
Kim niên xuân đáo, khách tương phùng (*)
Vịnh Bức Địa Đồ Rách
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi ?
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi.
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.
1921
Xuân Tứ
Xuân xưa Hàng Lọng cờ bay
Thoi đưa ngày tháng đã đầy mười năm.
Biết bao ra Bắc vào Nam,
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng.
Văn chương chút nghĩa đèo bòng
Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao ?
Ngày xuân thêm tuổi càng cao,
Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng!
1936
Gió Thu
Trận gió thu phong rụng lá vàng,
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang.
Vàng bay mấy lá năm già nửa,
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng.
Trận gió thu phong rụng lá hồng,
Lá bay tường bắc, lá sang đông.
Hồng bay mấy lá năm hồ hết,
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông.
1925.
Mỵ Châu Trọng Thuỷ
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Dạ quân vương
Duyên nọ tình kia dở dở dang
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Nghìn thu khói nhang.
Tống Biệt
Lá đào rơi rắc lối thiên thai
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi
Đá mòn rêu nhạt
Nước chảy huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi...
Thề Non Nước
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện nước thề non
Nước đi ra biển non còn ngóng trông
Non cao những ngóng cùng trông
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái hãy còn tuyết sương
Trời tây nổi bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét càng phôi pha
Non cao tuổi vẫn chưa già
Non thời nhớ nước, nước mà quên non
Dù như sông cạn đá mòn
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa
Non xanh đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề
TẢN ĐÀ NGUYỄN KHẮC HIẾU