Hôm nay,  

Tất Niên Nhớ Nước: Nhạc kịch Nabucco của Verdi và Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan: Ca khúc VA PIENSERO Guiseppe VERDI, một Ca Khúc Nhớ Nước bất hủ…

18/01/202010:42:00(Xem: 9231)

 

 “...Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc (quốc quốc)

Thương nhà mỏi miệng cái da da (gia gia) ...”

(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan 1805-1848)

 

Phan Văn Song

 

Thưa quý bà con,

 

Năm ta chưa tàn, năm tây đã đến, 2020, năm nay Việt Nam thực sự đã bước vào chương trình Hán Hóa. Kể từ nay, Việt Nam xưa thân yêu, quen thuộc của chúng ta sẽ chỉ còn là những hình ảnh hoài niệm … những  “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo…” của Bà Huyện Thanh Quan tức cảnh thốt: “cảnh đấy người đây luống đoạn trường” (Thanh Long hoài cổ) tiếc thời một cố đô Thanh Long  cực thịnh của Nhà Lê, nơi quê hương cũ của Bà, lúc ấy bà, là một cư dân nơi Triều đình Huế xa lạ!

 

Hôm nay xin giới thiệu với quý bạn ca khúc VA PIENSERO, thằng tôi người viết, xin tạm dịch là GỞI NHỚ, của Nhạc sĩ người Ý nổi danh Guiseppe Verdi (1813-1901)

 

Guiseppe Verdi:

 

- Sanh ngày 10 tháng 10 năm 1813 tại Roncole,  mất tại Milano 1901.

Ông nhạc sĩ người Ý nầy, sanh ra trong một gia đình, rất trung bình, cha mẹ làm chủ một quán ăn, gốc nông dân. Thuở nhỏ rất yêu nhạc, nên được nhạc sĩ chuyên giữ đại phong cầm nhà thờ (l’organiste) làng Roncole, nơi sanh quán ông, truyền dạy nhạc lý khi ông lên bảy. Ba năm sau, chỉ vừa đủ 10 tuổi, cậu bé Guiseppe đã đủ tài nghệ để Cha xứ làng Roncole, một làng nhỏ của tỉnh Parme, Đông Bắc Ý Đại lợi, cho phép giữ nhạc thay Thầy, trong những buổi thánh lễ. Do đó, chỉ với tý tuổi đầu mà chàng Guiseppe Verdi đã khá nổi tiếng một vùng … Từ đó như diều gặp gió, chàng từ một gia đình tầm thường lớn lên trong một làng tầm thường, biến thành một nhạc sĩ nổi tiếng với những nhạc kịch nổi tiếng. Chưa đầy 30 tuổi, chỉ mới viết được ba vở tuồng nhạc kịch mà đã thành công, chỉ với vở tuồng thứ ba Nabucco, đã tạo được một ca khúc để đời, “ Va Piensero” được truyền miệng khắp dân gian đất Ý… Một nhạc sĩ, chỉ qua một ca khúc đã biến thành một nhà chánh trị có tầm vóc, uy tín, với tiền tài và địa vị, đưa đến danh vọng; vào cuối đời chánh trị gia, chàng đã từng làm dân biếu và khi mất năm 1901, được quốc táng - cả chục ngàn người ái mộ, nhơn sĩ, chánh trị gia, quần chúng đưa tiễn.  

 

Tuồng kịch đã nổi tiếng mà cả những ca khúc lồng trong những tuồng nhạc kịch cũng nổ tiếng. Ngày nay, không một năm nào mà không có một tuồng của Verdi được được trình diễn cùng trên thế giới. Những ca khúc của Verdi, ai ai trên thế giới đều biết điệu hát, dù không thuộc lời ... như “Va Piensero” của tuồng Nhạc Kịch - Opéra Nabucco (được nữ ca sĩ Nana Mouskouri của những năm 1960 chuyễn lời thành “Quand je Chante La Liberté – Khi tôi hát lời Tự Do” ...  hay La donna è mobile – của tuồng Rigoletto (được ca sĩ Duy Khánh trình diễn ở vũ trường Ma Cabane, Sàigòn thời yêu dấu của chúng ta dạo nào!) hay ca khúc Libiamo ne'lieti calici (« Buvons dans ces joyeuses coupes » - Hãy cụng ly), thường được gọi là brindisi của La Triavata và nhiều điệu nữa như trong Aïda, hay trong Il trovatore

 

- Thằng tôi rất mê Opéra. Ở xứ nhà quê, làng xã tôi, không có Nhà Hát lớn, chỉ có một rạp chiếu bóng nhỏ thôi. Ngày nay, thường chiếu truyền trực tiếp, một tháng một lần, những tuồng Kịch Hát ở các Hí Viện lớn Paris, Marseille, Nice … và nhờ đó, cứu tôi, thoát đở cơn ghiền, nên cũng lai rai thường được xem những tuồng “ăn khách” như “La flute Enchantée” của Mozart, “Carmen” của Bizet, … La Traviata của Verdi …

 

 - Thằng tôi tự ví yêu Opéra, cũng như yêu Cải lương của xứ Nam kỳ mình vậy! Hai nghệ thuật rất có nhiều điểm tương đồng, đều diễn tả những cái thâm thúy tình cảm qua lời nhạc, cả hai đều rất “bình dân” điều có cả nơi anh chàng Âu Tây (của tui), cũng như cả nơi anh chàng U Tê Cu-Uống Trà Quạu (cũng của tui) – tui không dám nói ai cả -  cải lương miền Nam mình diễn tả cái tinh túy tình cảm mộc mạc của dân Nam kỳ mình. Nhưng với Opéra Tây hay như Cải lương mình, hổng phải tuồng nào mình cũng thích đâu, có lựa có chọn đàng hoàng, chẳng những do thị hiếu trường đời ảnh hưởng, nhưng cũng do sở thích cá nhơn, mà hể thích rồi thì cứ lay hoay trong các tích tuồng ấy… Âu Tây thì nơi Mozart hơi hướng Áo Đức, Verdi, Rossini, của Ý, Pháp thì Bizet với Carmen khỏi nói rồi… Cải lương miền Nam ta thì quên sao được “Lan và Điệp”...coi hoài chẳng chán… hay Đời Cô Lựu … Với những tài tử ... thời mình ! Út Trà Ôn, Phúng Há… hồi xưa niên thiếu, thời đi coi với má hay đi coi cọp, hay Thành Được, Thanh Lan ... thời mình lớn...sau nầy!

 

 - Thằng tôi có diễm phước có được một cô dâu nghệ sĩ cải lương Pháp, artiste chanteuse, danseuse d’Opérette –  từ ngữ nầy, ngày nay Mỹ hóa thành những nghệ sĩ nhạc vũ kịch – d’artistes de music hall … nên thường bị hiểu lầm là những nghệ sĩ các Cabarets kiểu Moulin Rouge hay Casino de Paris, vũ khỏa thân hay French Cancan...

- Opérette khác Opéra là có nhảy múa, nghĩa là vừa kịch nói có, vừa vũ và cả hát nữa và thường là hài kịch – comédie, vui nhộn, kết cục tốt đẹp cười vui - không có bi kịch.

- Xưa thiên hạ chia hai loại tuồng hát - Nhạc Kịch: - Opéra Ca kịch toàn Hát và - Ballet Vũ kịch toàn Vũ… giành cho khán thính giả giới cao cấp, trung thượng lưu.

Opérette trái lại, bình dân hơn, tổng hợp, vừa Hát vừa Vũ … Một ca khúc Opérette, được người Việt mình rất mê chuộng là ca khúc Mexico (được nghệ sĩ ca sĩ Cao Thái ngày xưa ngân lên... Mê xì cồ…. Mê  Xìì …. Cồ  – Cao Thái cũng một thời cũng tunh hoành ở Ma Cabane Sài gòn). Mexico được ca sĩ Luis Mariano với giọng ngân điêu luyện đưa cái note cuối cùng Contre Ut lên cao độ  đã đưa Mexico thành ca khúc bất tử. Ca khúc nầy thuộc tuồng “Le Chanteur de Mexico”.

- Le Chanteur de Mexico, Nhạc kịch gồm 2 hồi và 20 màn, nhạc của Francis Lopez, trình diễn lầu đầu ở Paris 15 tháng 12 1951 ở Nhà Hát Chatelet, Paris. Luis Mariano là tài tử chánh.

- Huê kỳ tân thời hóa Opérette dưới tên Music hall nhờ phim ảnh với các điệu vũ mới qua các tài tử Fred Astaire, Gene Kelly… Giger Roger, Cyd Charisse…  và quên sao các nhịp claquette – clap … của thời niên thiếu chúng ta Sài gòn dạo nào… hay của những năm 60 với cuốn phim bất hủ West Side Story – Chuyện Phố Tây …?

 

Nabucco : 1842

 

Nhạc kịch Nabucco – tên sơ khởi là Nabuchodonosor là một nhạc kịch 4 hồi nhạc của nhạc sĩ Guiseppe Verdi, kịch bản-livret của soạn giả Temistocle Soleral, trích từ bản bi kịch Nabuchodonosor (1836) của hai tác giả người Pháp Auguste Anicet-Bourgeois và Francis Cornu -  được khai trương trình diễn lần đầu ngày 9 tháng 3 năm 1842 tại Nhà Hát La Scala ở Milano.

Nabucco nhắc chuyện trong Thánh Kinh Cựu Ước, về thời dân Do Thái đang là nô lệ ở Babylone -

điển hình với Ca khúc « Va pensiero... » - thường được gọiCa khúc của những người nô lệ – le chant des esclaves – Verdi sáng tác khúc ca ấy lúc bấy giời (1842) rất đúng với tình huống chánh trị của quần chúng và công dân Ý vùng Milano đang bị ở dưới ách đô hộ của Đế quốc ÁoHung.

 

Cũng với lý do đó, ngày hôm nay đầu năm 2020, chúng tôi người viết Phan Văn Song cũng cống hiến cùng quý bà con, câu chuyện của ca khúc nầy, để nhắc nhở hoàn cảnh từ nay dân Việt ta thời nay cũng đi vào làm nô lệ cho Đế quốc Hán Cộng, như thời xưa dân Do Thái dưới thời Nabuchodonosor vậy !

 

Ca khúc « Va pensiero... »

 

Nếu Nabucco được xem, là vở nhạc kịch có tánh cách chánh trị chống đế quốc Áo Hung lúc bấy giờ, và Guiseppe Verdi là một nhà « nhạc sĩ đấu tranh chống Đế quốc », giống như bà con người Việt tỵ nạn chúng ta ngày nay ở Hải ngoại đấu tranh chống đế quốc Cộng Sản Tàu Việt vậy ! Thì ca khúc của cuối hồi 3 của tuồng Nabucco của ông, « Va piensero », là những lời ca điển hình của cuộc đấu tranh cho Tự Do một đất nước ! Khi « Va piensero » nổi lên, thật là : y như một kết luận, y như một lời kêu gọi, y như một thiên hùng ca, y như là một Quốc ca Ý thứ hai, đòi Tự Do vậy !

 

Để dẫn chứng :

- Ngày 12 tháng ba năm 2011, nhơn dịp lễ kỷ niệm lần thứ 150 ngày Thống Nhứt nước Ý Đại Lợi  (17 tháng 3 năm 1861) tại Teatro dell’Opera di Roma – Nhà Nhạc Kịch thành phố Roma  - vở tuồng Nabucco được trình diễn, ban nhạc được điều khiển bởi cây đủa thần của Nhạc trưởng Riccardo Mutti, với sự có mặt của Giorgio Napolitano và Silvio Berlusconi Tống thống và Thủ tưởng Ý đương nhiệm. Khi « Va piensero » nổi dậy, cả hội trường xao động, đây đó vài tiếng « Viva Italia ! - Ý quốc muôn năm » … Nhạc trường Mutti quá xúc cảm, và để tán thưởng, lần đầu tiên, nhạc trưởng Mutti, ngừng ngang bản kịch, cho hát lại – bis – và kêu gọi khán giả hát theo….

 

Thật sự mà nói, khi Verdi viết kịch bản Nabucco, và cả khi ra mắt lần đầu tiên năm 1842, cả dân chúng Milano và lẫn cả Verdi cũng không thật tình, có ý thức Chống Áo. Thế nhưng vài năm sau, bắt đầu 1846, khi phong trào chống Áo lan rộng, « Va piensero » biến thành bài ca chung để diễn tả một tư tưởng hòa hợp toàn dân Ý chống ngoại xâm… Và Verdi biến thành người anh hùng chống đế quốc. Và tên Verdi cũng được dùng để ủng hộ phong trào Cần Vương ủng hộ Victor Emmanuel người lãnh tụ phong trào dựng lại nước Ý . Verdi biến thành « Victor Emmanuel Re DItalia » - Victor Emmanuel Vua nước Ý – Và  « Va piensero » là bài ca của một nguồn hy vọng, của một cuộc đấu tranh, cũng như một quốc ca, với lời than tuyệt vọng : « Oh, mia patria sì bella e perduta! » !

 

Tạm kết:

 

Có vài bình nhạc gia, sử gia người Pháp ví « Va piensero », như bản Marseillaise của Pháp !

Riêng thằng tôi, người viết, Phan Văn Song xin quý bà con Việt Nam ta cho phép, được ví như bản « Việt Nam Minh Châu Trời Đông » của nhạc sĩ  Hùng Lân của chúng ta vậy.

 

 Lời của bài ca :

 

1 / Lời Ý (lời chánh) :                                              2 / Lời Việt tự do của Phan Văn Song

 

Va, pensiero                                              Gởi nhớ

Va, pensiero, sull'ali dorate;                                        Gởi nhớ theo mây ngàn bay

va, ti posa sui clivi, sui colli                                        Nhớ rừng nhớ núi, nhớ hoài biển xanh

ove olezzano tepide e molli                                         Nhớ sao từng ngọn gió nồm

l'aure dolci del suolo natal!                                         Ngọt ngào tình nghĩa một thời ấu thơ

Del Giordano le rive saluta,                                        Thôi, chào Bến nghé Đồng nai

di Sionne le torri atterrate.                                          Biệt ly Tân Định Bến Thành Tự Do

Oh, mia patria sì bella e perduta!                            Xin chào Tổ quốc thân yêu

Oh, membranza sì cara e fatal!                                    Xin chào vĩnh biệt quê hương mất rồi !

Arpa d'or dei fatidici vati,                                          Ngẫn ngơ một tiếng nhạc sầu

perché muta dal salice pendi?                         Thẫn thờ lui tới trước sau một mình                          

Le memorie nel petto raccendi,                                   Bao nhiêu kỷ niệm bấy lâu                             

ci favella del tempo che fu!                                       Bao nhiêu ký ức chôn sâu vào lòng                       O simile di Solima ai fati                                       Bao nhiêu quá khứ vứt đi

traggi un suono di crudo lamento,                              Cố nghe giữ lấy những gì hôm nay

o t'ispiri il Signore un concento                                Lạy Cha Thiên Chúa trên trời

che ne infonda al patire virtù!                        Cho con được hưởng cuối đời bình yên !

 

 

3 / Lời dịch Pháp :                                                              4/ Lời dịch Anh :

 

Va, pensée                                             Chorus Of The Hebrew Slaves        

Va, pensée, sur tes ailes dorées ;                                               Fly, thought, on wings of gold,                       Va pose-toi sur les pentes, sur les collines,                             go settle upon the slopes and the hills

Où embaument, tièdes et suaves,                                             where the sweet airs of our

Les douces brises du sol natal !                                              native soil smell soft and mild!

Salue les rives du Jourdain,                                                    Greet the banks of the river Jordan

Les tours abattues de Sion …                                                  and Zion's tumbled towers

Oh ma patrie si belle que j'ai perdue !                                  Oh, my country, so lovely and lost!

Ô souvenir si cher et si fatal !                                                 Oh remembrance so dear yet unhappy!

Harpe d'or des devins fatidiques,                                            Golden harp of the prophetic wise men

Pourquoi pends-tu, muette, aux branches du saule ?              why hang so silently from the willows?

Ranime dans nos cœurs les souvenirs,                                    Rekindle the memories in our hearts,

Parle-nous du temps passé !                                                    tell us about the times gone by!


Ou bien, similaires au destin de Solime                                     Remembering the fate of Jerusalem 

Fais entendre quelques tristes complaintes,                              play us a sad lament 

Sinon, que le Seigneur t'inspire une harmonie                        or else be inspired by the Lord                       

Qui nous donne le courage de supporter nos souffrances !    to fortify us to endure our suffering!

 

 

Hồi Nhơn Sơn, Tất Niên Kỷ Hợi

Phan Văn Song 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.