Hôm nay,  

Đi Nghe Ngàn Khơi 30 Năm Kỷ Niệm

13/12/201900:00:00(Xem: 5370)
Di Nghe Ngan Khoi 30 nam Hinh 1
Bích Vân hát bài Giấc Mơ Hồi Hương của nhạc sĩ Vũ Thành An.Photo Việt Phạm



Di Nghe Ngan Khoi 30 nam Hinh 2
Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi, Giàn Nhạc Giao Hưởng OCofOC, nhạc trưởng Mộng Thủy với Trường Ca Hòn Vọng Phu trong chương trình kỷ niệm 30 Năm- Photo: Việt Phạm



Di Nghe Ngan Khoi 30 nam Hinh 3
MC Nguyễn Hoàng Dũng và Lê Đình Y Sa (Photo: Việt Phạm) Bích Liên hát bài Tình Hoài Hương của nhạc sĩ Phạm Duy (Photo: Việt Báo)


Di Nghe Ngan Khoi 30 nam Hinh 4
Thu Vàng hát Dạ Khúc của Nguyễn Văn Quỳ VS Music Studio Đồng Ca Thiếu Nhi bài Hoa Cam của Vivian Lê & Tuổi Thơ của Lê Thương. (Photo: Việt Báo)


 
1.

Một chương trình ca nhạc đánh dấu 30 năm ngày thành lập ban hợp xướng vốn được xem là nổi bật nhất của cộng đồng người Việt hải ngoại, với những khúc nhạc bất hủ của bảy, tám mươi năm tân nhạc VN, trình diễn bởi những ca sĩ tên tuổi hiện thời, cùng hàng trăm nhạc sĩ, ca viên, dưới tài điều khiển của những nhạc trưởng đầy khả năng và giàu kinh nghiệm, hiển nhiên phải là một chương trình đặc sắc, để lại dư âm trong lòng người nghe một thời gian thật dài, nếu không muốn nói là mãi mãi…

Tôi muốn nói đến buổi trình diễn của ban hợp xướng Ngàn Khơi, cùng các nghệ sĩ được mời, hôm 24/11/2019 vừa qua tại khán trường Saigon Performing Art, tọa lạc ngay trung tâm Little Saigon, Quận Cam, California.

Với một chương trình dàn dựng quy mô, tập luyện kỹ lưỡng, tổ chức chu đáo, trong đó người trình diễn cũng như người nghe đều đặt hết tâm hồn mình vào tiếng nhạc, lời ca, thì sự thành công là không lạ, và tôi có thể gọi đây là một sự kiện văn hóa đánh dấu sự trưởng thành vượt bực của cộng đồng Việt hải ngoại. Tôi mạo muội viết đôi dòng này gọi là chia sẻ vài ấn tượng và cảm nhận đơn sơ của mình với bạn về chương trình buổi nhạc.


2.

Điều thú vị đầu tiên gây ấn tượng lớn trong lòng tôi là lúc nghe hai khúc nhạc của nhạc sĩ Lê Văn Khoa trích từ Symphony VietNam 1975, ông viết cho giàn nhạc giao hưởng và ban đại hợp xướng. Một khúc nhạc đồ sộ, gói ghém nhiều tham vọng và ước vọng của nhà soạn nhạc. Khúc nhạc gồm bảy hành âm mà mỗi hành âm là một câu chuyện kể như phân cảnh một cuốn phim truyện. Hai hành âm trình tấu trong chương trình hôm đó là hành âm dẫn nhập và hành âm chót, khúc Ca Ngợi Tự Do.

Overture mở màn chương trình là hành âm dựa trên mô-típ một bài nhạc cổ miền Nam, bài Bình Bán Vắn. Nhạc đề xuất hiện rất sớm, ngay những trường canh đầu với giàn nhạc giao hưởng dõng dạc lên tiếng. Sau đó, xen lẫn với nhạc đề chính là những điệu thức dân gian khác diễn tả một đất nước Việt Nam thanh bình. Tiếng violin cao vút (nhịp tiết biến thể của bài dân ca Trèo Lên Quán Dốc) như ánh trăng vằng vặc soi sáng đêm thâu. Rồi tiếng giã gạo chày ba (một lối giã gạo đặc trưng của miền Nam), tiếng người ơi ới gọi nhau trong làng, câu hò tình tứ (cello solo) từ đâu đó xa xa vọng lại, tiếng trai gái đối đáp nhau. Tất cả gom lại thành bức tranh lý tưởng khắc họa một đất nước thanh bình, một dân tộc an cư lạc nghiệp. Toàn thể hành âm là những nhịp điệu sinh động bồi hồi, đầy phấn khởi. Nghệ thuật âm nhạc đạt tới mức độ điêu luyện. Tứ nhạc phong phú nhưng không chõi nhau. Mô-típ Bình Bán Vắn giữ vị thế chủ đạo, xướng họa nhịp nhàng, nhưng các tứ nhạc khác đều có sự đóng góp thích hợp để cùng tạo nên bức tranh hiện thực linh động.

Giàn nhạc giao hưởng Orchestra Collective of Orange County (ocofoc) dưới tài điều khiển của nhạc trưởng tuổi trẻ tài cao David Rentz đã phối hợp ngũ âm Việt Nam vào nhạc cụ Tây phương một cách tuyệt hảo, và nhờ thế, tinh thần của khúc nhạc đã được diễn tả cao độ, tạo cảm xúc bồi hồi trong lòng người nghe là tôi.

Bài Ca Ngợi Tự Do, chủ đề của hành âm thứ bảy kết thúc Symphony VietNam 1975, lại là tiết mục mở màn cho phần II của chương trình. Tiếng cello solo mở đầu hành âm như biểu lộ tấm lòng căm phẫn nhưng cương quyết không chịu lùi bước trước gian nguy và bạo lực. Nhạc đề nguyên thủy trở lại ngũ âm điệu Oán bi tráng, cảm động. Cường độ nhạc tăng dần rồi ban hợp xướng nhập cuộc, bùng vỡ ở cường độ vũ bão khúc hát Ca Ngợi Tự Do dựa trên biến thể nhịp tiết bài dân ca Lý Chim Quyên. Câu nhạc ngắn, nhịp tiết dồn dập, mạnh mẽ, chan chứa niềm tin son sắt. Kế đó nhạc chuyển sang đoạn tâm tình rất cảm động của giọng tenor với sự hỗ trợ hài hòa của soprano, alto, bass và giàn nhạc:

“Khi ra đi con đã hứa với Mẹ rằng: Dù ngày sau sẽ không còn nhau nữa thì hồn
con sáng hơn ngàn tinh tú và rạng soi cho nước ta: Việt Nam.”

Nhạc liền chuyển sang đoạn cương quyết với toàn ban hợp xướng hát tiếp:

“Ngàn người sống: Chứng nhân kinh hoàng!
Vạn người chết: Đuốc soi tự do!
Nước mắt muôn triệu người
Tưới xuống quê hương mình,
Trồi lên tràn đầy mầm sống mới: Tự Do!”

Âm thanh trong đoạn cuối rực sáng nhờ dùng cung D Trưởng. Bốn con âm cuối, Tự Do Muôn Năm, nhất là hai âm Muôn Năm, không về chủ âm D mà bung thoát lên quãng năm cao hơn, nốt A cao. Dĩ nhiên alto, tenor vút lên cao, mà bass cũng thoát đi. Tất cả bay vút lên như ngàn cánh chim tung tỏa, phất phới trong bầu trời Tự Do.

Với Symphony VietNam 1975, nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã rất hãnh diện về đóng góp này của ông vào kho tàng văn hóa Việt. (Khúc nhạc hiện được lưu trữ trong Thư viện Quốc gia Úc.) “Dấu ấn” của ông trong chương trình là rõ rệt, ngoài hai tấu khúc vừa kể và ca khúc Ngày Mai Chia Tay do ca sĩ Ngọc Hà trình bày, ông còn soạn hòa âm cho nhiều nhạc khúc khác, không phải do ông sáng tác. Trong quá khứ, ông từng là nhạc trưởng của ban hợp xướng Ngàn Khơi, và ngày nay tuy ở tuổi hơi… cao, 86 mùa xuân đời người đã qua, ông vẫn không ngừng tham gia những sinh hoạt nghệ thuật trong cộng đồng.


3.

Trọng tâm của chương trình, dĩ nhiên, là ban hợp xướng Ngàn Khơi. Khởi đi từ buổi ban đầu khiêm tốn, do nhạc trưởng Trần Chúc điều hành, ban nhạc đã vượt qua những đoạn đường dài thăng trầm với nhiều thử thách, để có ngày hôm nay. Tuy không theo dõi thường xuyên quá trình sinh hoạt của ban nhạc, nhưng tôi nghĩ không niềm vinh quang nào mà không có những hy sinh to tát và nỗ lực hơn người. Một điểm son cho tất cả – từ các anh chị trong ban điều hành cho đến các em thiếu nhi học nhạc – không thể nói hết bằng vài câu chữ bình thường!

Ban hợp xướng Ngàn Khơi tối hôm đó quả đã chứng tỏ được trình độ nghệ thuật chuyên nghiệp, từ bài hợp xướng tương đối đơn giản, Khỏe Vì Nước, đến ba bài Hòn Vọng Phu phức tạp hơn nhiều, và đã không phụ lòng chờ đợi của giới mộ điệu. Tôi nghe Hòn Vọng Phu không biết bao nhiêu lần mà không bao giờ thấy chán. Ở cả ba khúc, giai điệu hào hùng lẫn bi tráng nối tiếp nhau như những lớp sóng xô đẩy không ngớt, cảm xúc biến chuyển không ngừng, có những lúc tưởng sẽ ngưng lại ở một hình ảnh nào đó nhưng tiếng nhạc và ca từ đột ngột lôi kéo mình sang một ảnh tượng và tâm cảm khác, thậm chí tương phản, tương phản đến buốt lạnh linh hồn:

Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng.
Người không rời khỏi kiếp gian nan,
Người biến thành tượng đá ôm con.

Hòn Vọng Phu của nhạc sĩ Lê Thương xứng đáng là một classic trong kho tàng âm nhạc Việt, và nơi đây nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã cho chúng ta một hòa âm tuyệt vời khiến khúc nhạc như được đẩy lên một chiều kích mới, một biên vực mới, nơi chỉ có âm nhạc, giai điệu, hòa điệu, ca từ, không một thứ gì khác, chế ngự tâm hồn người nghe.

Ban hợp xướng Ngàn Khơi đã thành công vượt bực ở khúc hát này. Ca sĩ Julianne Yên Thư cũng vô cùng xuất sắc trong vai trò solo ở khúc II.

Xin nói thêm một chút về chất lượng thanh âm của ban hợp xướng. Ngoại trừ hai khúc Ca Ngợi Tự DoHòn Vọng Phu, ở những khúc khác, thanh âm của ban hợp xướng hình như thiếu phóng chiếu xuống khán giả. Không hiểu vì giàn nhạc giao hưởng chơi forte, lấn át giọng hát, hay vì acoustics của khán trường có vấn đề. Tôi để ý, sàn rạp lót thảm, một điều tối kỵ tại các venue trình tấu nhạc thính phòng hay giao hưởng.

Và, có lẽ cũng chính bởi thế mà ban hợp xướng đã không thể hiện đúng mức nghệ thuật đa thanh. Nghe hợp xướng, tôi luôn luôn lắng nghe “bè.” “Bè” là biến tấu đơn giản hóa từ nhạc thức phức điệu fuga, trong đó có hơn một “giọng” – mỗi “giọng” giữ một giai điệu độc lập – cùng lúc xướng lên, quyện lẫn vào nhau nhưng không chõi nhau. Sự thú vị khi nghe “bè” là ở đó, bởi thế hợp xướng và “bè” là hai yếu tính không thể tách rời. Phần nhiều những khúc hợp xướng nghe tối hôm đó, tôi chỉ nghe một “giọng” unison. Sự thiếu quân bằng có lẽ do thành phần ca viên không cân xứng chăng? Bởi chỉ có 6 tenor và 6 bass, đọ với 28 soprano và 14 alto, rõ ràng là “Nữ thịnh dương suy”!


4.

Về đơn ca thì có tất cả 10 tiết mục được trình bày bởi những ca sĩ tài danh nhất của làng nhạc Việt hải ngoại, thiết tưởng tôi không nên nhiều lời. Nhưng tôi không thể không nói đôi điều về ca sĩ Bích Vân. Tối đó, chị Bích Vân hát hai ca khúc, Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi của Phạm Duy và Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành. Cả hai đều là classic, tôi nghe hát rất nhiều, bởi nhiều ca sĩ khác nhau, nhưng qua giọng Bích Vân, tôi đã được nghe hai khúc nhạc “mới” do nghệ thuật phrasing độc đáo của chị đem lại. Phong cách ngắt câu, phân nhịp, thẩm định cường độ, trường độ nốt nhạc của chị là tuyệt chiêu, hiếm có ca sĩ Việt Nam nào chịu dày công luyện tập như thế. Sắc điệu trong tiếng nhạc cũng được chị tinh tế chú tâm, thí dụ con âm “rừng” trong bài Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi, chị đã phả một phương âm ngả sang giọng Trung / Chàm để tạo âm sắc lạ, nói cách khác, chị đã phổ sắc màu lên giai điệu một cách đầy sáng tạo và thú vị. Giọng soprano của chị thì trong vắt như pha lê, hát legato óng mượt như mật chảy, dù là quãng ba thuận âm hay quãng bảy nghịch âm, chị đều nhẹ nhàng đẩy nốt nhạc đến nơi đến chốn, không chút do dự, không chút ngập ngừng. Sự thật là chị hát dễ dàng như lấy đồ trong túi và với một phong thái tự tin chắc nịch, thể điệu trình bày duyên dáng (như một pha diễn nhạc kịch), chị đã hoàn toàn chiếm cảm tình của người nghe (là tôi.) Chất giọng chị sang cả, mà không kịch tính, có phần ngả sang “cổ điển” nhiều hơn là “lãng mạn” kiểu “sóng vỗ tràn bờ.” Có nghĩa là, nếu hát nhạc cổ điển, chị sẽ thành công với Mozart nhiều hơn là Wagner.

Ba nữ ca sĩ khác mà tôi cũng yêu thích là Bích Liên, Ngọc Hà và Thu Vàng.

Bích Liên với phong cách phát âm “tròn vành rõ chữ” khiến tôi liên tưởng đến giọng các ca nương ca trù. Chị hát với một phong thái vững vàng, tự tin. Chất giọng của chị rực sáng, chị chú tâm đến chất lượng từng nốt nhạc, mỗi nốt nhạc là một biểu hiện tâm hồn đối với chị, có lẽ bởi thế chị hay chọn nhạc Phạm Duy, như bài Tình Hoài Hương, và hôm đó chị đã hát bài này thành công rực rỡ.

Thu Vàng cũng thế, nhưng khác Bích Liên, ở người ca sĩ này là một chất giọng trữ tình, tha thiết và da diết. Có cái gì ấm áp khi nghe chị hát, một cái gì thương cảm, vỗ về. Ca khúc chị chọn hôm đó, Dạ Khúc của Nguyễn Văn Quỳ, phong cách cổ điển Tây phương – viết cho giọng hát nhưng với giai điệu đó, cũng có thể là violin – một viên ngọc quý trong kho tàng âm nhạc Việt, nhưng tôi không hiểu tại sao ít nghe hát trên sân khấu, cũng chẳng thấy mấy ca sĩ thu âm. Bảo Thu Vàng chọn khúc nhạc này là không đúng, chính khúc nhạc đã chọn chị.

Ngọc Hà tối đó hát bài Ngày Mai Chia Tay của Lê Văn Khoa. Khúc nhạc cũng như giọng hát của chị nhẹ nhàng, thanh thoát, tạo những cung bậc u sầu, buồn man mác.

Có hai nam ca sĩ tham dự chương trình, đó là Lê Hồng Quang và Nguyên Khang. Cả hai đều là ca sĩ thượng thặng, giàu kinh nghiệm ca hát, danh tiếng nổi như cồn, nhưng điểm tôi muốn nói ở đây là sự tương phản thật rõ nét ở hai anh. Lê Hồng Quang, chất giọng bel canto quý phái, trau chuốt, thanh cao, tương phản với chất giọng “mộc” của Nguyên Khang. Lê Hồng Quang, phong cách nghiêm túc, kiểu cách, reserved, tương phản với Nguyên Khang, sôi nổi, sóng vỡ tràn bờ, unfettered. Lê Hồng Quang implicit, phóng chiếu nội tại trong khi Nguyên Khang explicit, phóng chiếu ngoại tại. Vân vân và vân vân. Thế nhưng, Nguyên Khang đã rất thành công với ca khúc Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà của Phạm Duy phổ thơ Hữu Loan, trong khi Lê Hồng Quang chỉ thành công ở mức độ vừa phải với bài Đôi Mắt Người Sơn Tây của Phạm Đình Chương phổ thơ Quang Dũng. Cả hai bài thơ của hai thi sĩ cùng thời, cùng chí hướng (được hai nhạc sĩ sống cùng thời, tài năng ngang ngửa nhau) phổ nhạc, mang chung một tâm cảm u uất, u hoan với thời thế, quê hương, ở Phạm Đình Chương thì man mác, ở Phạm Duy thì bi phẫn. Tâm cảm đó chỉ có cách dùng con dao sắc rạch toác ra, bởi nó cũng chẳng có gì siêu hình khó hiểu, đừng đóng khung triết học lên nó làm gì, hãy cho nó một hình tượng cảm xúc mộc mạc, raw emotion, nếu tôi có thể nói như thế.

Nguyên Khang đã làm thế, và anh thành công.

Tôi đặc biệt chú ý một giọng hát trẻ, trẻ lắm, bởi trông cô còn dáng dấp học trò. Nghệ danh cô là Mê Linh và cô hát ca khúc Dạ Lai Hương của Phạm Duy. Tôi đã nghe cô hát vài lần ở những chương trình nhỏ hơn, nhưng chính trên sân khấu lớn này, với ban nhạc giao hưởng, tôi mới thấy hết tiềm năng của cô. Chất giọng cô tròn đầy, sung mãn, và phrasing của cô thì chẳng kém gì các bậc đàn anh, đàn chị. Phát âm của cô không thuần Việt, có lẽ vì cô sinh trưởng ở nước ngoài, nhưng điều đó không quan hệ trong âm nhạc. André Bocelli hát tiếng Anh với âm giọng Ý vẫn được bà con tán thưởng, có sao đâu. Tôi nghĩ cô sẽ còn tiến xa trên con đường ca hát của cô.


5.

Tôi rất muốn nói thêm về các tiết mục khác, ban thiếu nhi, ban thiếu niên, Cát Trắng, Sóng Xanh, v.v… Tất cả đều làm tròn nhiệm vụ của mình một cách đáng khen, nhưng chắc bạn nghe tôi nói nãy giờ đã mệt mỏi lắm rồi, phải không? Thú thật với bạn tôi cũng có chút “mệt mỏi” với chương trình hôm đó. Một chương trình dù hay cách mấy mà kéo dài trên bốn giờ đồng hồ thì cũng là một thách đố cho tính kiên nhẫn của khán giả ngồi nghe bên dưới, nhất là chương trình lại trùng với giờ ăn tối, từ 4 giờ chiều đến 8 giờ tối!!!

Rồi đến các MC. Tôi không hiểu do đâu các chương trình ca nhạc của người Việt mình phải có quá nhiều MC làm công việc giới thiệu, hướng dẫn (và lâu lâu còn thuyết giảng về lòng ái quốc, nhớ nước thương quê). Chương trình phần nhiều là ca khúc, có lời, chẳng có chi khó hiểu. Có tờ chương trình trong tay thì đâu cần MC ra vào mỗi bài. Hơn nữa, những ca khúc đó, có người đã nghe cả trăm, cả ngàn lần trong đời, thuộc nằm lòng, đâu cần ai hướng dẫn. Nếu có những thông tin mới lạ liên quan đến khúc nhạc, tác giả, ca sĩ, nhạc sĩ, thì in vào tờ chương trình, và trong lúc chờ đợi mở màn, khán giả ngồi đọc tại chỗ, rồi sau đó đem về nhà “học” thêm. Làm thế, sẽ thu ngắn thời lượng chương trình ít nhất nửa giờ đồng hồ.

Dù vậy, không biết bạn sao, chứ tôi ra về hôm đó trong lòng rất vui vì đã thưởng thức một chương trình ca nhạc Việt hiếm có trong cuộc sống tha hương này, và không khỏi thán phục những người có tấm lòng tổ chức và khổ luyện cho một chương trình hợp xướng công phu, tầm vóc.

Trịnh Y Thư

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Loạt phim "The Sympathizer" bắt đầu chiếu trên HBO hôm 14/4, mỗi tuần một tập. VIệt Báo sẽ trích đăng một số ý kiến, bình phẩm của một số người viết từ khắp nơi về loạt phim này, từ nay cho đến khi chiếu hết 7 tập. Loạt bài viết này là quan điểm của các tác giả, không nhất thiết phản ảnh quan điểm của ban biên tập Việt Báo.
Đã lâu lắm, cũng trên hai mươi năm tôi hầu như quên mất việc vào rạp hát coi ciné như hồi xưa ở bên nhà. Cho đến tuần rồi, người bạn trẻ Tôn Thất Hùng gọi phone nói chị Kiều Chinh có nhã ý mời tôi đi coi phim chị đóng: The Sympathizer. Tết Nguyên Đán năm Kỷ Hợi, chị Kiều Chinh và tôi gặp nhau tại tòa soạn Việt Báo ở Quận Cam đến nay vẫn chưa có dịp găp lại; thiết nghĩ đi xem phim Kiều Chinh đóng cũng là một cách tái ngộ nữ tài tử gạo cội này. Cuốn phim The Sympathizer được trình chiếu tại rạp hát TIFF Bell Lightbox nằm trên một đoạn đường King Street còn gọi là Phố Festival tức Phố Lễ Hội TIFF thường niên vào tháng 9 qui tụ nhiều ngôi sao trên thế giới.
Ai chết? Chị Chung đã qua đời, chị không chết, không hết, vẫn còn lan man đâu đó, ở đâu đó, khi chị đi qua cuộc đời này. Không có ý định trở về tìm chị nhưng bỗng nhiên đang đứng nơi đây, hứng những trái trứng cá ngọt ngào mà chị thả xuống. Làm sao để phân biệt khi mút trái trứng cá chín và những đầu ngón tay của chị, mềm mềm, êm êm, ướt đẫm.
Theo lời Ban Tổ Chức, “Dòng Chuyển Của m Thanh” là sự kết hợp Đông-Tây độc đáo, mang những thang âm mới mẻ, chưa từng được công diễn bất cứ nơi nào qua những tiếng đàn bầu, đàn kìm, đàn tranh, đàn T'rưng hoà quyện cùng dàn nhạc giao hưởng và ban hợp xướng Tây phương...
Những tràng pháo tay kéo dài sau mỗi màn trình diễn của các nghệ sĩ, cả khán phòng gần một ngàn khán giả im lặng, thả cảm xúc vào từng mỗi bản nhạc. Khó có thể diễn tả hết những cảm xúc lẫn lộn của mỗi khán giả đã theo dõi trọn vẹn một chương trình nhạc thính phòng dài hơn ba tiếng đồng hồ cho đến tận phút chót, mà theo lời Nhạc sĩ Lê Văn Khoa đã phát biểu trên sân khấu là "lần đầu tiên trên thế giới" có một chương trình âm nhạc Việt Nam như vậy.
Khi tác giả Việt Thanh Nguyễn lớn lên ở California như một người tị nạn sau Chiến tranh Việt Nam , những miêu tả về cuộc xung đột đó hiện diện khắp nơi trong văn hóa đại chúng Mỹ. Platoon, Apocalypse Now, Full Metal Jacket, và nhiều bộ phim khác miêu tả các chiến sĩ Mỹ chiến đấu trong vùng nước lạc hậu đen tối và sau đó đối phó với những tổn thất tâm lý tại quê nhà. Rất ít bộ phim trong số đó nói đến trải nghiệm của người Việt Nam – những người tự xem cuộc xung đột là cuộc Chiến chống Mỹ.
Tối thứ sáu, 5 tháng Tư, 2024, tại rạp chiếu bóng AMC Orange 30, thành phố Orange, chỉ cách trung tâm Little Saigon năm, sáu dặm, HBO đã tổ chức buổi tiếp tân và chiếu phim đặc biệt nhằm giới thiệu bộ phim truyền hình 7 tập, The Sympathizer / Cảm tình viên, do kênh truyền hình HBO thực hiện, dựa trên cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer năm 2016 nổi tiếng cùng nhan đề của nhà văn Nguyễn Thanh Việt, kể về một điệp viên Cộng Sản nửa Pháp, nửa Việt trong những ngày cuối của chiến tranh Việt Nam...
Tối thứ Hai 1 tháng Tư, nhà văn Nguyễn Thanh Việt đã gặp gỡ khán giả ở miền bắc California để giới thiệu bộ phim “Cảm tình viên / The Sympathizer” dựa trên tiểu thuyết cùng tên đã đưa ông lên đỉnh văn đàn Mỹ với giải Pulitzer 2016.
Mỗi khi tôi nghe ca khúc Summertime, lòng không khỏi băn khoăn về tâm sự màu da, nhất là khúc nhạc blue này được trình bày qua những giọng hát thần kỳ, run rẩy tức tưởi cho thân phận con người. Nhạc sĩ George Gershwin sáng tác ca khúc này năm 1934, gần một trăm năm sau khi tu chính án 13 của hiếp pháp Hoa kỳ được công bố xác nhận quyền tự do, hủy bỏ luật nô lệ cho màu da đen tháng 12 năm 1865. Đời sống dân da đen bắt đầu khá giả hơn. Sau nhà có ao nuôi đầy cá. Trên đồng mồ hôi đã nở những hoa gòn. Những thành tựu đó cho phép người mẹ người chị thoát cảnh lam lủ, được trang điểm nhan sắc, y phục đẹp đẽ hơn. Cho phép cha già được an vui, nghỉ ngơi và các em bé nô đùa vang tiếng cười.
Phim "Mai"của đạo diễn Trấn Thành, vừa là nhà sản xuất phim vừa là diễn viên, cùng với dàn diên viên: Phương Anh Đào, Tuấn Trần, Hồng Đào, Ngọc Giàu, Việt Anh... Bộ phim tình cảm, tâm lý xã hội được đầu tư lên tới 50 tỉ đồng...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.