Hôm nay,  

Thăm nhà văn già xứ dừa

01/08/201918:05:00(Xem: 3144)




C:\Users\samanh\Desktop\DSC02590.JPG
nhà văn Trang Thế Hy

Men theo ký ức đã mù mờ do năm tháng và những đổi thay của khung cảnh đường phố, tôi đến chỗ con rạch nhỏ gần một nghĩa trang bề thế ở ven châu thành Bến Tre, vô quán nước hỏi đường đến tư gia nhà văn Trang Thế Hy. Năm sáu cao bồi vườn xồn xồn đương hội họp nhâm nhi bia sớm hững hờ về cái tên xa lạ. Vài người lơ đảng nhúng môi vô ly tiếp tục chầu vui. Sắp thất vọng trở ra thì tiếng một cô gái lui cui bỏ dừa vô bao cà-ròn cách đó không xa hỏi vọng lại “Phải chăng bác hỏi  Ông Ba nhà văn?”. Tôi gật đầu cầu may và được chỉ đi dọc theo con kinh vào chừng 100 thước. Cô gái còn mách lẽo thêm ông Ba trong dịp Tết nầy mới lãnh giải thưởng văn nghệ cao cấp của tỉnh nhà. Mừng thầm cho nhà văn mình mến mộ, ít ra giải thưởng cũng đem lại chút ít vật chất cho người có công với văn nghệ khi về già, cũng như đem lại phần nào sự hãnh diện cho xứ sở đã sanh thành ra ông. Nhớ lại khi tôi còn rất trẻ đã đọc tác phẩm của ông, và những người nổi tiếng đồng thời như Lưu Nghi, Khổng Nghi... trên những số báo Nhân Loại in tại một nhà in trên đường Bến Chương Dương mà tôi nao nức đón đợi từng số một từ vài ngày trước khi số báo mới được phát hành. Sau nầy lớn hơn một chút, thỉnh thoảng đọc ông trên tạp chí Bách Khoa, cái rộn ràng chờ mong của thời mới lớn không còn nhiều nhưng sự thích thú thưởng thức không hề suy giảm. Ông viết ít nhưng mỗi bài đưa ra một vài vấn đề vang dội trong tâm trí người đọc. Truyện có dư vị đăng đắng, không ở trạng huống bi thảm trên số phận của nhân vật mà ở những cách  thế suy nghĩ, ở thái độ hành xử đặc biệt của nhân vật. Tất cả đều bước ra ngoài sự bình thường đơn điệu hằng cữu, khác xa với những phản ứng thường nhật thấy ở con người tiêu biểu, chung chung. Với tôi, truyện của ông nặng về lý trí hơn tình cảm, không dễ đọc một mạch để cho ta biết cốt lỏi của vấn đề, truyện ông kén người thưởng thức, nhưng khi người đọc đã chịu thì ông là một tác giả không thể quên trong bao nhiêu người viết mà mình từng hâm mộ.

Vào tới cửa ngỏ nhà ông, nhìn khu vườn không nhiều chăm sóc, cỏ phủ kín khoảng sân và hàng ba lót gạch tàu mốc rêu xanh dờn. Mấy con chó sủa vang dội. Một phụ nữ trung niên ra mở cái cổng khép hờ, la đàn chó và mời khách vào. Chúng tôi được mời vào căn chái bên hông nhà, có lẽ đó là nơi tiếp khách tươm tất nhất của chủ nhơn với chậu vạn thọ trong góc hè còn vương màu Tết. Ra tiếp chúng tôi với cặp mắt già nhấp nháy nhìn khách, ông cố lôi trong trí nhớ coi khách là ai. Dáng chậm chạp từ tốn pha trà, thong thả đặt khay mứt còn lèo tèo mấy miếng gừng, mấy cục thèo lèo xanh đỏ lên bàn mời khách như để kéo dài thời giờ đào sâu trong ký ức về một hình ảnh đã nhạt nhòa. Sau những câu thăm hỏi xã giao, chủ khách đã phá tan được lớp băng giá e dè khi nhà văn nhớ lại khách đã đến đây hàn huyên vài lần, câu chuyện trở nên thân tình hơn, vào trong tâm sự hơn khi khách nhắc đến vài bạn văn xưa đương thời với ông. 

Nhà văn năm nay đã 86 tuổi, đương sanh sống trên mãnh vườn nhỏ với hai người con cũng xấp xỉ 60, với chút ít huê lợi cây trái đắp đổi qua ngày,sức khỏe có suy nhược do tuổi già nhưng trí nhớ thì rất phi thường. Bặp bặp một hơi thuốc theo thói quen, ông chậm rải kể chuyện xưa, chuyện nay, thỉnh thoảng trầm ngâm về dĩ vãng, nhớ lại những biến cố trong đời hay những nhận định có nhiều giá trị. “....Tôi vào rừng Tây Ninh giữa năm 1963. Bị người tố cáo nên sau khi ở tù ra thì đi liền. Vào đó cùng sinh hoạt chặt chẽ với anh Lý Văn Sâm. Anh Sâm người hiền từ, ốm như tôi, lớn hơn tôi 4 tuổi, chúng tôi coi nhau là bạn văn, chia sẻ những suy nghĩ văn nghệ. Sau nầy về Sàigòn, chúng tôi vẫn còn thân thiết. Điều lạ là ở trong đó tên tôi là Tư Sâm. Tại sao hả? Tình cờ thôi, đặt là đặt vậy, không có lý do gì trong cái thứ và cái tên. Anh Lý Văn Sâm vào đó trước tôi sau khi phá khám, Dương Tử Giang bị chết trong vụ nầy...” Hoặc vài chi tiết vui vui: ‘Năm 1989 tôi được Hội Nhà Văn đề cử đi Liên Xô cùng với một người nữa, đi 10 ngày, mà xứ sở của người ta minh mông quá xá nên mình cũng chẳng thấy được bao nhiêu. Đời sống lúc đó chưa ổn định, cái áo veston thì mượn của Lý Văn Sâm, cái quần thì mượn của người khác. Lúc  đó...’. Nhà văn ngừng ngang, không nói hết ý, vài phút sau mới tiếp. “Bây giờ anh Lý Văn Sâm nằm ở nghĩa trang Thành phố, mã đá hoa cương rất đẹp...”

Tôi tìm trong ánh mắt nhà văn một tình cảm gì đó khi nói mấy chữ sau cùng, thoáng ao ước hay khen tặng.. Cặp mắt ông như xa vắng sau làn khói thuốc mỏng.

Người nghe ghi nhớ những chi tiết cần thiết, những chi tiết không phải dễ được nghe từ người có dính dáng đến những nhân vật thế thời.. Cuộc chiến vừa qua đã cuốn lôi bi thiết biết bao nhiêu người vào cuộc. Kẻ đúng người sai trong sự lựa chọn, kẻ tự nguyện kẻ bị dòng đời đẩy xô vào, nhưng tấm lòng vì nước của từng người, từng trường hợp cho đến giờ vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Tôi nhìn lại nhà văn, móm mém chậm chạp, phong trần theo dấu thời gian tuy nét thanh nhã xưa vẫn còn có thể nhìn thấy phưởng phất trong ánh mắt thiệt hiền từ và trong sáng.

Tôi nhắc về bức họa chân dung rất có thần treo trên vách mà mình thấy lần trước cách đây mấy năm, ông xác nhận chân dung đó do danh họa Nguyễn Trung, trong nhóm Họa Sĩ Trẻ của Sàigòn thập niên 60, vẽ tặng. Nguyễn Trung ít vẽ chân dung nam, dường như là chỉ vẽ có hai người thôi, còn đều vẽ chân dung phụ nữ. Tôi nghĩ lơ mơ về chỗ dựng xứng đáng của bức tranh nầy khi nhà văn nằm xuống, như bức tranh chân dung nhà văn Sơn Nam, chiếm một vị trí trang trọng ở nhà lưu niệm Sơn Nam nơi cống Bảo Định Tiền Giang, do họa sĩ thời danh Nhốp múa cọ...

Nhắc đến số lượng truyện ngắn của hai người, về những sáng tác gần đây, tôi phàn nàn rằng mình mất quá nhiều thời giờ cho những bài biên khảo và chuyện phiên âm chữ Nôm nên phần văn nghệ thuần túy không được phong phú như ý muốn, ông lý giải rất thuyết phục về sự đa dạng của văn chương. Có loại làm người đọc động lòng, có loại khiến độc giả động não. Loại nào cũng thể hiện được bản lĩnh của người cầm bút. Nhận định sâu sắc của nhà văn khiến tôi nhớ đến một truyện ngắn mà ông đăng trên tạp chí Nhân Loại ngày xưa, trong đó nhân vật chánh, một cô xẩm trẻ đã chê nhà văn nhát gan khi không dám cho nhân vật mình chết khi đáng chết.

Tôi bắt gặp ánh mắt trầm tư của nhà văn, vừa xa vắng vừa mỉm cười hóm hỉnh: ‘Truyện đó mang tình cảm sâu đậm của tôi. Sự thật trong truyện đó thiệt là nhiều. Cô xẩm trẻ sau đó chịu chết cháy vì không muốn làm đồ chơi cho một trọc phú đã đặt mua cô ngay khi cô tuổi mới 12, 13.’ Tôi không dám trơ trẻn hỏi về sự thật liên hệ giữa nhà văn và nhân vật nữ nầy ở ngoài đời. Có những điều bạn đọc, bạn viết muốn hỏi nhà văn lắm nhưng phải cố dằn lòng bỏ qua dầu biết rằng chi tiết đó sẽ đem lại một cái nhìn rõ ràng hơn về tác phẩm nào đó của nhà văn.

Hình như nhắc đến truyện ngắn nầy nhà văn nhớ đến chuyện tình yêu, ông đề nghị hai người chúng tôi, mỗi người đọc cho ông nghe về một bài thơ của Tagore mà ông đã dịch từ một bản Pháp ngữ mới in trong tập thơ mỏng Đắng và Ngọt

Tôi đọc, cố rõ từng chữ một vì là lần đầu tiên mình đọc bài thơ nầy. Bài thơ như đa số những bài khác của Tagore, thuộc loại ẩn dụ, không dễ gì thông hiểu khi chưa có nhiều thời giờ suy nghĩ: ‘ Em đã xếp tôi vào chỗ dành cho những người thua trận/ Tôi biết rằng quyền chiến thắng cũng như quyền rút ra  khỏi cuộc chiến không thuộc về tôi/ Tôi lao xuống vực thẳm, quyết chạm cho được cái đáy của vực thẳm ấy/ Tôi chơi canh bạc của người thua trận/ Tôi ném vào canh bạc ấy tất cả những gì tôi có, và khi đã mất tất cả mọi thứ rồi, tôi sẽ ném luôn vào đó tấm hình hài xương thịt của tôi....’ 

Nhà văn góp ý: ‘Kẻ thua bạc nầy đã đặt tới số vốn cuối cùng của đời mình. Đó là hình hài mình. Không còn diễn tả nào cặn kẻ hơn, tận cùng hơn về hình ảnh kẻ thua. Tận cùng!. Nhà văn thốt ra hai tiếng  ngắn gọn và lại trầm ngâm trong tư tưởng gợi ý từ lần nghe mới. Tôi thông hiểu tâm trạng đó. Bài thơ tuyệt phẩm là bài thơ khiến ta mỗi lần đọc lại khám phá ra thêm ý mới và dễ kéo ta vào những suy tư bất tận mới. Lâu lắm ông mới lên tiếng. ‘Bài thơ đưa ẩn dụ về tình yêu. Kẻ thua cuộc là kẻ không được yêu lại nhưng vẫn hết mình đối với tình yêu đó, kể cả cái chết . Yêu là vậy!’

Nhìn ông già móm mém hom hem bàn luận về chuyện yêu đương, về thơ ca diễm tuyệt, tôi thấy mình thật may mắn, thật hạnh phúc khi lắng nghe: Đời người không phải dễ có những phút giây như vậy. Duyên văn nghệ chăng, cơ may chăng? Cao hứng tôi xin phép đọc bài thơ mình  vừa khai bút đầu Xuân mấy hôm trước, tặng bạn văn già :

Sãy chân lạc bước xuống đời,/ Xin chào thế giới bằng lời u-oa./ Lưng còng mắt kém, sần da,/ Tay run gậy trúc, trí dần dà quên./ Thở hơi không nỗi nằm tênh. /Bao nhiêu chủng tử lềnh bềnh phổi gan./ Uổng công nắm bắt thời gian,/ Sá gì dẫu có triệu ngàn kiếp sanh /Ta bà vây khổn quanh mình,/An nhiên tự tại rẽ khinh mọi điều.’

Nhà văn nhắc lại hai câu cuối và chép miệng. ‘An nhiên tự tại không phải dễ gì. Rẽ khinh mọi điều còn khó hơn.’ Trước khi từ giã, tôi đề nghị chụp một bức hình lưu niệm. Ông đứng sát vô tôi, nhỏ nhoi, nhẹ hỏng, nói như dặn dò nghiêm nghị : ‘Tốt khoe xấu che nha, hình chụp làm kỷ niệm nha, không nên đưa ra công chúng lúc nầy.’ 

Tôi hiểu lời dặn như sự né tránh đám đông của người già. Tới tuổi nào đó sự đơn giản, hiu quạnh lại là thói ưa; ồn ào, hình thức phô trương nào về mình cũng làm mình thấy khó chịu... Trên đường về lại Sàigòn, gặp một  tấm bảng quảng cáo lớn bằng cả một tòa nhà đập vào mắt hàng chữ: “Chào mừng sự kiện tiêu thụ kỷ lục 1 tỷ lít bia X..”, tôi xúyt xoa với bạn đồng hành: ‘Phải chi một vài tấm bảng kia là hoan nghinh tim óc của của nhà văn già hết đời với xứ dừa thơ mộng thì hay biết mấy!’.Con đường về đượm nhiều nét âm u của buổi chiều tà, tự dưng tôi thấy buồn lòng với ý nghĩ đó.

blank


Nguyễn Văn Sâm (Sài-thành, đêm Nguyên Tiêu Tân Mão, 2011)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.