Hôm nay,  

Vấn Đề Trục Xuất Người Tỵ Nạn Việt Nam

28/01/201905:54:00(Xem: 5434)

Vấn Đề Trục Xuất Người Tỵ Nạn Việt Nam

 
Luật Sư Nguyễn Quốc Lân

 

Vấn đề trục xuất người tỵ nạn Việt Nam là một vấn đề  đang gây dao động trong cộng Việt Nam tại khắp nơi trên toàn Hoa Kỳ.  Tìm hiểu về thực tế của vấn đề để tìm ra một phương hướng vận động là một điều cần thiết cho  tất cả mọi người quan tâm.
 

Vấn đề trục xuất người di dân có hồ sơ phạm pháp

Theo luật của Hoa Kỳ, những người ngoại quốc được nhập cảnh vào Hoa Kỳ mà có hồ sơ phạm pháp trước khi được vào quốc tịch thì vẫn có thể bị trục xuất về quốc gia nguyên quán theo luật di trú.  Những đối tượng di dân bị trục xuất bao gồm cả những người được nhập cảnh theo diện tỵ nạn.

Những trường hợp  bị trục xuất theo luật di trú bao gồm các trường hợp như có tội hình sự nghiêm trọng và có thể bị tù trên 5 năm, đã bị kết án tù trên 1 năm, tối thiểu hai lần tội nhẹ (misdemeanors hay tội tiểu hình) nhưng có yếu tố về đạo đức (moral character) ví dụ như ăn cắp vặt, gian lận trợ cấp hay ký ngân phiếu giả, hay các tội  đặc biệt theo luật di trú như đỉ điếm, mua dâm, tang trữ hay mua bán thuốc phiện, xử dụng vũ khí trái phép, v..v.. Những người di dân này có thể được đưa vào tòa án di trú để tiến hành xét xử về hồ sơ trục xuất sau khi đã thọ án và hoàn tất cá hình phạt.

Khi những người di dân này bị đưa ra toà án di dân để trục xuất, họ có thể xin được miễn vì những lý do như gây khó khăn đặc biệt cho người thân hay gia đình, đã có thành tích phục thiện và đóng góp  cho xã hội. Những trường hợp đặc miễn này không áp dụng trong trường hợp đã bị kết tội tại tòa án di trú hay ký giấy chấp nhận bị trục xuất.

Sau khi có lệnh bị trục xuất, chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiến hành trục xuất những người này đến các quốc gia nguyên quán theo chương trinh trục xuất người di dân phạm pháp. Hoa Kỳ hiện có hiệp ước trục xuất với hầu hết mọi quốc gia, ngoại trừ một số các quốc gia từ khối cựu Cộng Sản như Cuba, Bắc Hàn, Lào, Campuchia hay Việt Nam.
 

Trường hợp người Việt Nam

Người di dân Việt nam bị rơi vào trong những trường hợp rất đặc biệt mà đã làm cho vấn đề của họ bị phức tạp hơn. Những người di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ thời gian đầu tiên sau năm 1975 phần lớn là theo các chương trình tỵ nạn như thuyền nhân, tù cải tạo, con lai, đoàn tụ gia đình, v..v.. Trong nhiều năm trước đây, chính phủ Việt Nam vẫn khăng khăng không nhận người Việt Nam phạm pháp bị trục xuất vì họ muốn Hoa Kỳ phải trả tiền để hội nhập họ như HK đã làm đối với các thuyền nhân Việt Nam bị hồi hương. Hoa Kỳ thì không muốn trả tiền vì họ không muốn mở một tiền lệ cho các quốc gia khác.  Sự bế tắc này đã kéo dài cho mãi đến năm 2008 khi chính phủ của hai quốc gia mới đạt được một thoả thuận trao trả người Việt Nam bị trục xuất, Agreement on the Acceptance of the Return of Vietnamese Citizens.

  

Thỏa Thuận trao trả những người Việt bị trục xuất.

Ngay cả trong hiệp ước này, Viêt Nam cũng chỉ đồng ý tiếp nhận những người Việt Nam đến Hoa kỳ sau tháng 7 năm 1995, tức là thời điểm hai nước thiết lập bang giao. Đối với những người đến trước đó, thoả thuận có ghi rõ là Việt Nam sẽ không tiếp nhận họ. Mặc dầu thỏa thuận nói rõ như vậy, Hoa Kỳ đã từng trao trả những người đến HK trước tháng 7 năm 1995, nhưng không rõ trong trường hợp nào.

Thoả thuận này còn nêu rõ là thỏa thuận có thể được gia hạn mỗi 5 năm hay bị đình chỉ nếu một bên thông báo cho bên kia trước 60 ngày. Do đó, chính phủ Hoa Kỳ không bị ràng buộc trên căn bản pháp lý nếu Hoa Kỳ muốn đơn phương hủy bỏ thỏa thuận này. Nhưng nếu hủy bỏ thỏa thuận này thì không có phương cách nào khác để trục xuất những người Viêt nam phạm pháp.
 

Hoa Kỳ hiện đang làm áp lực với Việt Nam buộc Việt nam phải tiếp nhận mọi thành phần có thể bị trục xuất, trước mắt là khoảng 8,500 người đã có lệnh trục xuất. Vì tình trạng giằng co giữa Hoa Kỳ và Việt Nam liên quan đến việc trục xuất di dân gốc Việt có hồ sơ phạm pháp, những người Việt Nam này đã bị rơi vào tình trạng khó khăn như ngày hôm nay.

  1. Vì không có thỏa thuận trục xuất với Việt Nam, nhiều người đã bị giam giữ vô hạn định  trong các trại giam di trú sau thời gian thọ án hình sự và trước khi được đưa ra xét xử trong tòa án di trú. Tình trạng này đã đưa đến nhiều vụ kiện dân quyền vì lý do Hoa Kỳ đã giam giữ những người này quá lâu hay vô hạn định mà không có lý do chính đáng. Tòa án Liên Bang đã can thiệp và ra lệnh thả tự do cho hầu hết những người này trong thời gian chờ đợi bị trục xuất. Trước khi có án lệ này, nhiều người đã ký giấy đồng ý bị trục xuất để thoát khỏi tình trạng bị giam tù vô hạn định và nghĩ rằng việc trục xuất sẽ khó xảy ra.
  2. Vì vấn đề trục xuất không xảy ra đối với trường hợp người Việt Nam, nhiều người đã đồng ý nhận tội tại tòa án hình sự mà không cân nhắc đến ảnh huởng có thể bị trục xuất. Ngay cả trong tòa án di trú, nhiều người vẫn đồng ý tự nguyện bị trục xuất thay vì chống trả lại những cáo buộc bị trục xuất chỉ vì nghĩ rằng họ sẽ khó bị trục xuất về Việt Nam.  Nếu vấn đề trục xuất đã xảy ra sớm hơn, họ có thể có những sự cân nhắc thích ứng hơn hay hành xử khác đi.
  3. Vì không bị trục xuất nhưng được thả tự do, họ đã phải bươn trãi trong hoàn cảnh khó khăn như không có giấy tờ hợp pháp, cuộc sống không ổn định hay chấp nhận cuộc sống khó khăn hơn vì hoàn cảnh riêng của mình. Đây là một cái giá phải trả có nhiều khi khó khăn hơn cả những hình phạt hay thọ án vì sai phạm của họ. Tuy nhiên nhiều người đã thành công để gây dựng lại cuộc sống như có gia đình con cái, làm ăn lương thiện và đóng thuế, gây dựng cơ sở thương mại hay đóng góp vào nhiều lợi ích xã hội.

 
Sự Cân Nhắc Đặc Biệt Cho Trường Hợp Người Tỵ Nạn Việt Nam

Trong hoàn cảnh chính trị hiện nay, đòi hỏi một sự nhân nhượng cho những người di dân có hồ sơ phạm pháp là một việc rất khó khăn. Tuy nhiên trường hợp người tỵ nạn Việt Nam cần có một sự cứu xét đặc biệt vì hoàn cảnh riêng khá hi hữu của họ.

  1. Nếu Việt Nam không tiếp tục chính sách nghi ngờ và kỳ thị đối với thành phần này thì vấn đề không kéo dài tới ngày hôm nay. Đây không phải là lỗi của những người tỵ nạn này.
  2. Nếu việc trục xuất được thực hiện sớm hơn như đối với các quốc gia khác thì nhiều người tỵ nạn Việt Nam đã không rơi vào tình trạng như ngày hôm nay vì họ có thể đã có những hành xử khác hơn cho chính họ cũng như nhiều khác, ví dụ như chống lại các cáo buộc hình sự hay trục xuất trong toà án di trú để trường hợp của họ được xét xử một cách công bình hơn.
  3. Vì tình trạng kéo dài đến ngày hôm nay, xã hội cần xét lại các hệ lụy khác như gia đình, con cái, các đóng góp trong xã hội hay kinh tế. Nếu thủ tục trục xuất được thực hiện sớm hơn, những người này có thể đã chấp nhận vấn đề một cách dễ dàng hơn mà không có nhiều hệ lụy khác gây ra bởi yếu tố thời gian.
  4. Vì vấn đề đình trệ trong thủ tục trục xuất mà không phải lỗi của những người tỵ nạn Việt Nam này, họ đã trả giá rất đắc không những cho sai phạm của họ lúc còn non trẻ, mà suốt trong thời gian dài sau đó. Bây giờ những hình phạt này đối với họ còn gây tác hại lớn đến cả gia đình và con cái của họ, những công dân Mỹ và hoàn toàn vô tội trong thảm trạng này.

 
Đề Nghị Giải Pháp

Trong trường hợp nan giải đối với những người tỵ nạn Việt Nam, có một số giải pháp mà các thành phần liên hệ có thể cứu xét như sau.

  1. Hủy bỏ lệnh trục xuất đối với thành phần người tỵ nạn Việt Nam theo tinh thần của thỏa ước năm 2008 vì sự trì hoãn không phải lỗi của họ và họ đã trả giá quá đắc cho những sai phạm của họ và qua thời gian đã chứng tỏ họ là những người công dân tốt và đóng góp nhiều cho xã hội.
  2. Cho phép tòa án di trú mở lại hồ sơ hay cứu xét lại hồ sơ trục xuất của những người liên hệ. Trong trường hợp này, tòa án có thể cứu xét những yếu tố như liên hệ với Việt Nam hay Hoa Kỳ, cuộc sống hoàn thiện hay đóng góp vào xã hội, hay hệ lụy đối với gia đình hay thân nhân trực hệ nếu người thân bị trục xuất về Việt Nam.

Kết Luận

Việc tìm ra một giải pháp thỏa đáng đối với vấn đề trục xuất những người tỵ nạn Việt là một việc làm chính đáng vì những người này đã trả giá và đền tội cho những sai phạm của họ mà phần lớn xảy ra lúc còn non trẻ hay mới đến Hoa Kỳ, sau đó tiếp tục trả giá cho cùng sai phạm đó trong cuộc sống của họ và giờ đây trục xuất họ về Việt Nam thì án phạt đó tương tự như án tù chung thân cho cùng sai phạm đó. Giờ đây, án phạt đó còn liên hệ đến vợ chồng, con cái hay những người thân khác mà hoàn toàn vô tội và không liên hệ gì đến những sai phạm đó. Vấn đề nan giải này đã không xảy ra nếu Việt Nam không tiếp tục quan điểm nghi kỵ hay thù hận đối với những người di dân Việt Nam này mà vẫn còn tiếp tục đến ngày nay. Hoa Kỳ có nhiều lý do chính đáng để cứu xét đặc biệt cho thành phần di dân tỵ nạn này.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.