Quân sử Việt Nam có thể ghi Ngày Quân Lực 19-6 như ngày Quân Đội VNCH đứng ra chấp chánh. Đó là ngày chấm dứt cuộc tranh chấp có tính chánh trị phe phái của các nhân vật chánh trị thượng tầng sau cuộc đảo chánh chấm dứt đệ nhứt Cộng Hòa và bao lần đảo chánh, chỉnh lý bằng quân sự.
Nhưng người dân Việt bây giờ nhớ ngày Quân Lực khác hơn. Nhớ đó như ngày ghi ơn những thế hệ người Việt nam, nữ đã gia nhập Quân Đội VNCH vì dân chiến đấu, vì nước hy sinh để bảo vệ xóm làng, bảo vệ tự do, dân chủ trước làn sóng xâm lăng của CS Bắc Việt, trong cuộc chiến tranh tự vệ, mà thế giới sử gọi là Chiến Tranh VN. Ơn đó lớn, nhớ nhiều nên Tượng Đài Chiến sĩ Việt Mỹ là tượng đài người Việt chung lưng đâu cật, góp công góp của dựng lên đầu tiên ở Thủ Đô Người Việt tỵ nạn, trước hơn các nơi có người Việt tỵ nạn CS định cư, trước hơn các tượng đài tưởng niệm thuyền nhân, danh nhân Việt trong Chiến Tranh VN, trên thế giới.
Kiểu nhớ ngày Quân Lực VNCH đó tuy bình dân, nhưng lâu dài hơn các kiểu nhớ khác. Cũng như văn học bình dân, dân gian, ca dao, tục ngữ nhiều người nhớ và nhớ lâu, nhiều hơn văn học Hán Nôm trong văn học sử VN. Quan chỉ nhứt thời, dân mới vạn đại. Kiểu nhớ khác với kiểu nhớ lịch sử giống như kiểu nhớ ngày President Day, Father’s Day, Mother’s Day của Mỹ. Chắc chắn không người Mỹ nào còn nhớ hết tên tuổi, nhiệm kỳ, việc làm của gần 50 tổng thống Mỹ. Như khi rời ghế nhà trường và thi xong môn lịch sử, đa số trả lại cho thầy. Giáo dục là những gì còn lại sau khi đã quên hết. Cái còn lại của môn lịch sử trong lòng người Mỹ cũng như Việt là nhớ ơn những người đã làm dân giàu, nước mạnh, tiếng tốt.
Nhờ kiểu nhớ bình dân đó, khiến các đơn vị Quân Đội tan hàng sau 30-4-75 vì bị thế lực quốc tế bức tử, người quân nhân VNCH vẫn thấy mình chưa giải ngũ. Và suốt hơn 43 năm giã từ vũ khí, những cựu quân nhân VNCH bây giờ là những người sống và làm việc dân chính ở mọi ngành nghề trong ngoài nước, ít hay nhiều vẫn tiếp tục tranh đấu cho chánh nghĩa tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Chánh nghĩa mà trước đây đã thúc đẩy những người ấy để một bên những ngày hoa mộng của tuổi trẻ, đi vào Quân Đội VNCH để chiến đấu. Còn người dân VNCH vẫn thấy quân dân VNCH như cá với nước. Người dân khi chạy giặc là chạy ra vùng quân đội VNCH, chủ lực quân, địa phương quân, nghĩa quân kiểm soát, gìn giữ an ninh cho đồng bào. Chớ không ai chạy vào bưng biền do CS tạm chiếm.
Có khoảng 400,000 quân nhân VNCH hy sinh cho Tổ Quốc VN trong chiến tranh. Nếu so với dân số Mỹ với 2 triệu thương vong trong cuộc Chiến Tranh Nam Bắc của Mỹ, tỷ lệ tổn thất của QLVNCH cao gấp đôi của Mỹ. Nếu không thực sự dũng cảm chiến đấu, thì không thể tổn thất lớn lao như vậy. Khi VN Cộng Hoà bị bức tử, số tướng tá tuẫn tiết chết theo thành để bảo toàn danh dự Quân đội VN Cộng Hoà, rất nhiều, làm dân chúng VN, quân đội đồng minh, Mỹ, Nam Hàn rất kính trọng. CS Bắc Việt đã đày những quân nhân VNCH đi tù biệt xứ, lao động khổ sai, tra tấn tinh thần bằng nhiều hình thức, nhưng quân nhân VNCH thà chết chớ không phản bội chánh nghĩa Quốc Gia. Đến đỗi Mỹ hối hận, phải “trao đổi” mật với giá mắc để CSVN cho những chiến sĩ VN Cộng Hoà này đi tỵ nạn chánh trị ở Mỹ.