Hôm nay,  

Tháng Tư những mất và còn

22/04/201706:36:00(Xem: 6439)
Tháng Tư những mất và còn
 
Bùi Văn Phú

 

Người Việt ở lứa tuổi 30 hay trẻ hơn ngày nay ít ai biết đến một quốc gia có tên gọi “Việt Nam Cộng hòa” đã hiện hữu trên mặt địa cầu trong 20 năm, từ 1955 cho đến ngày 30/4/1975.

 

Cuối tháng Tư năm 1975 khi xe tăng và bộ đội cộng sản tiến chiếm Thủ đô Sài Gòn, hàng trăm nghìn người của đất nước này đã rời bỏ quê hương ra đi trong cơn hoảng loạn. Tương lai trôi dạt về đâu và cội nguồn sẽ còn lại gì nào ai biết được.

 

Những ngày sống qua các trại tị nạn, lo học vài câu Anh ngữ, tìm hiểu về đời sống, phong tục nơi đất nước mới sẽ là chốn định cư. Nhưng tương lai biết có còn nét văn hoá Việt nơi xứ lạ hay không nên nhiều người đã chuyền nhau đọc những quyển sách, tập truyện, đã chép lại những vần thơ, câu ca và nghe lại lời ca tiếng nhạc từ những băng cát-sét đã theo đoàn người tị nạn đến được bến bờ tự do.

 

Ngay từ trong trại Camp Pendleton ở miền Nam California những băng nhạc Việt được sao chép lại như chút quà từ quê hương cũ mà người tị nạn mang theo trên đường định cư.

 

Trong những ba-rắc hay giữa lều trại tị nạn trên đồi cỏ khô thường nghe vang vang ca từ nhạc Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Lê Uyên Phương. Cũng có hôm nghe Vũ Thành An, Từ Công Phụng và thi thoảng mới có Trần Thiện Thanh, Anh Bằng hay Duy Khánh, Trúc Phương.

 

Có nhạc Việt để nghe, người tị nạn còn tìm báo tiếng Việt để đọc vì trông ngóng tin tức về tương lai định cư, về tình hình quê nhà, về thân nhân thất lạc trong hành trình vượt thoát.

 

Ở đảo Guam có báo Chân Trời Mới phát hành mỗi ngày. Qua đến Camp Pendleton chỉ có tờ bản tin ngắn bằng tiếng Việt.

 

Những sinh viên du học đem báo Thái Bình, nguyệt san của Liên hiệp Việt kiều Yêu nước tại Mỹ, một tổ chức thân cộng, vào phát thì bị đồng bào đuổi đi.

 

Tháng 10/1975 các trại đón tiếp người tị nạn đóng cửa sau khi 130 nghìn người Việt đã được định cư tại Hoa Kỳ.

 

Chỉ vài tháng sau có trung tâm băng nhạc Việt của ca sĩ Khánh Ly ra đời đầu năm 1976 với băng nhạc “Như cánh vạc bay” gồm 16 ca khúc của Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly và tiếng đàn ghi-ta của bác sĩ Ngô Thanh Trung.

 

Sau có trung tâm của nhạc sĩ Ngọc Chánh, của gia đình Phạm Duy, có trung tâm Thanh Lan nhưng không phải của ca sĩ cùng tên, là những cơ sở sản xuất băng nhạc trong những năm đầu của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Từ đó nền âm nhạc Việt Nam Cộng hòa dần dần được bảo tồn tại hải ngoại để phục vụ nhu cầu tinh thần của người xa xứ.

 

Những ca khúc một thời của Việt Nam Cộng hòa và những sáng tác mới về hành trình tị nạn, đời lưu vong đã là chủ đề của hàng nghìn băng cát-sét, CD, băng hình VCR hay DVD được hàng chục trung tâm băng đĩa nhạc sản xuất. Biết đến nhiều nhất là các sản phẩm của Thúy Nga Paris by Night và Asia.

 

Đầu thập niên 1990 có những giao thoa giữa âm nhạc trong và ngoài nước. Một số ca khúc miền Nam bị cấm bắt đầu được nhà nước cho phép phổ biến. Trung tâm Kim Lợi của Thành Hammer, dù tổ chức nhiều buổi văn nghệ với ca sĩ trong nước bị phản đối, nhưng phải công nhận ông là người có công trong việc đưa ca sĩ và nhạc trong nước ra hải ngoại và giúp cho nhiều ca khúc thời Việt Nam Cộng hòa được các ca sĩ thế hệ sau biết đến và được hồi sinh trong lòng đất nước.

 

Từ khi Việt Nam mở cửa đón du khách, người Việt nước ngoài về thăm quê nhà thường xuyên hơn, đông hơn và đã đem theo những văn hoá phẩm hải ngoại nên người trong nước cũng được dịp tìm lại nét văn hoá Việt Nam Cộng hòa xưa.

 

Ngày nay với mạng thông tin toàn cầu Internet, qua YouTube người Việt ở khắp nơi trên thế giới có thể tìm xem hay nghe những ca khúc mình yêu thích của mọi thời đại.

 

Sau âm nhạc, nền báo chí tị nạn cũng phát triển rất sớm tại Hoa Kỳ. Năm 1976 đã có tờ Hồn Việt, do Nguyễn Hoàng Đoan, chồng của Khánh Ly, điều hành.

 

Từ miền Nam California, ngoài tờ Hồn Việt còn có báo Trắng Đen của Việt Định Phương, Thức Tỉnh của Tô Văn, Người Việt của Đỗ Ngọc Yến, Đất Việt (sau đổi thành Việt Nam Hải Ngoại) của Đinh Thạch Bích, Việt Nam Tự Do của Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi. Trong giai đoạn đầu đa số các báo là nguyệt san hay bán nguyệt san.

 

Từ tiểu bang Washington có tờ Đất Mới của Vũ Đức Vinh. Vùng Thủ đô Washington có Văn nghệ Tiền phong của Hồ Anh.

 

Năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 25 năm người Việt định cư tại Hoa Kỳ, Trung tâm Tác vụ Đông Dương (IRAC) của giáo sư Lê Xuân Khoa có xuất bản quyển tổng mục báo chí Việt ngữ hải ngoại do ông Nguyễn Hùng Cường, nguyên giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam Cộng hòa, biên soạn.

 

Sách xuất bản trước 30/4/1975 cũng được in lại và phổ biến rộng rãi tại hải ngoại từ cuối thập niên 1970. Những nhà xuất bản đầu tiên tại Mỹ là Đại Nam, Xuân Thu, Sống Mới và Việt Nam đã in lại cả nghìn tác phẩm từ tiểu thuyết của Duyên Anh, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Dương Hùng Cường, Nhã Ca, Trùng Dương, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Thụy Long đến sách của Hoàng Hải Thủy, Đoàn Thêm, Vũ Tài Lục, Đăng Trần Huân và nhiều tập nhạc của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Lê Uyên Phương v.v...

 

Lúc mới định cư ở Mỹ tôi cũng lo ngại cho văn chương, âm nhạc Việt Nam Cộng hòa rồi sẽ mai một đi.

 

Đến khi vào Đại học Berkeley, làm việc thêm trong thư viện trường và mới khám phá ra một kho sách miền Nam, trong đó có nhiều tác phẩm tôi đã đọc ngày còn ở quê nhà.

 

Qua hệ thống liên thư viên đại học tôi đã mượn từ Đại học Cornell nhiều tập nhạc, để từ đó trong những buổi sinh hoạt hay họp mặt các bạn sinh viên có thể ca “Nối vòng tay lớn”, “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” hay “Nghìn trùng xa cách”, “Bài không tên số 2”, “Còn chút gì để nhớ”, “Con đường tình ta đi”, “Vũng lầy của chúng ta”, “Huế Sàigòn Hà Nội”…

 

Những đại học lớn ở Hoa Kỳ như Cornell, Yale hay Harvard, Berkeley và Thư viện Quốc hội Mỹ đều có nhiều sách báo xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Nhiều nhất là tại Đại học Cornell, ở đây không chỉ có sách mà còn có báo, tập san và cả báo của sinh viên học sinh.

 

Từ sau ngày 30/4/1975 văn hoá Việt Nam Cộng hòa đã không chết mà còn nở hoa trên đất Mỹ.

 

Tháng 4/1980 Hội Sinh viên Việt Nam đại Đại học Berkeley tổ chức văn nghệ “Đêm Việt Nam” đầu tiên. Chương trình có hát hò ba miền, có múa nón, múa quạt, có áo dài tứ thân với khăn mỏ quạ. Có kịch thơ “Hận Nam Quan” để phản kháng kẻ thù phương Bắc, có đàn tranh, sáo trúc, ghi-ta, dương cầm. Sinh viên đơn ca “Áo anh sứt chỉ đường tà”, thi nhạc giao duyên “Áo lụa Hà Đông”, đồng ca “Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời Việt Nam hai câu nói bên vành nôi…”.

 

Hôm 8/4/2017 vừa qua, sinh viên Berkeley tổ chức văn nghệ thường niên, lần thứ 38, chủ đề “Fragments – Tìm tiếng nước tôi”.

 

Các bạn sinh viên đã cất tiếng đồng ca: “Oh, say! can you see by the dawn's early light. What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming… O'er the land of the free and the home of the brave?”, đã cùng ca vang: “Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống…”

 

Sinh viên đã soạn kịch về một gia đình với người cha sau ngày 30/4/1975 bị tù đày trong các trại học tập cải tạo rồi đến Mỹ định cư. Đó là bi kịch mà nhiều người dân Việt đã phải đối mặt sau khi đất nước tưởng sẽ hòa bình, oán thù sẽ tan. Đến Mỹ, cô con gái sinh ra sau chiến tranh muốn tìm hiểu về cuộc đời cha mẹ từng trải và về cội nguồn.

 

Các bạn đã cất tiếng hát ca ngợi tình cha, xen trong những màn múa lụa, múa nón, múa quạt, múa lân, bên cạnh những tà áo dài, áo bà ba, tiếng đàn tranh, ghi-ta, tiếng dương cầm.

 

Nhìn lại thời gian qua, từ sau dấu mốc lịch sử 30/4/1975 với mất mát là không gian tự do sáng tác trên đất Việt, nhưng còn lại vẫn là những tác phẩm văn học, những lời ca tiếng nhạc đã lắng sâu trong lòng nhiều người Việt.

 

Dù ngăn cấm và đã có những chiến dịch càn quyét, nhưng văn hoá Việt Nam Cộng hòa đã không mất đi mà còn được yêu thích cho đến hôm nay.

 

© 2017 Buivanphu

 

 blank

H01: Sách xuất bản thời Việt Nam Cộng hòa được in lại tại Hoa Kỳ (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H02: Một trong những băng nhạc đầu tiên của Khánh Ly phát hành tại Mỹ năm 1976 (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H03: Tiểu thuyết của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã được in lại tại Mỹ từ năm 1978 (ảnh Bùi Văn Phú)

 blank

H04: Văn nghệ sinh viên Đại học Berkeley hôm 8/4/2017 (ảnh Bùi Văn Phú)

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.