PHNOM PENH, Cam Bốt -- Một cuộc hội thảo tại Cam Bốt đã đưa ra lời báo động mới: Giới khoa học kêu gọi tiết kiệm nước cho nông dân sông Mekong.
Bản tin TTXVN cho biết “Hãy tiết kiệm nước nông nghiệp cho nông dân sông Mekong” là chủ đề và cũng là khuyến cáo của các nhà khoa học nêu ra tại cuộc hội thảo quốc tế ngày 16/3, do trường Đại học Cần Thơ và Học viện Hoàng gia Campuchia phối hợp tổ chức tại thủ đô Phnom Penh.
Hội thảo diễn ra trong bối cảnh giới chuyên gia đang có nhiều lo ngại về những biến đổi bất thường của nguồn nước sông Mekong, gây ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực nông nghiệp, môi trường và kế sinh nhai của hàng triệu người dân hạ nguồn sông Mekong, đặc biệt là Campuchia và Việt Nam.
Hội thảo có sự tham dự của các nhà khoa học đến từ trường Đại học Cần Thơ (Việt Nam), Học viện Hoàng gia Campuchia, Đại học Nông nghiệp Hoàng gia (Campuchia), Viện Kỹ thuật châu Á (AIT, Thái Lan), Đại học Hironori Arai-Chiba (Nhật Bản), Trung tâm Nông nghiệp Đại học bang Louisiana (Mỹ) và một số nhà khoa học khác đến từ Đức, Đan Mạch.
Tại hội thảo, các nhà khoa học khẳng định khu vực châu thổ sông Mekong đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho các quốc gia tiểu vùng sông Mekong và thế giới. Nguồn nước sông Mekong đóng vai trò đặc biệt quan trọng và quyết định đối với nền nông nghiệp của khu vực này.
Tại Việt Nam, vùng châu thổ sông Mekong cung cấp hơn 50% lượng gạo và lương thực, 65% tổng sản phẩm cá và hơn 70% sản lượng hoa quả phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, nhiều năm nay, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là sự tác động của các quốc gia phía thượng nguồn như việc xây dựng các đập thủy điện, đã khiến hạ nguồn sông Mekong cạn kiệt, ô nhiễm, nguồn thủy sản suy giảm, đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu người dân.
Vùng châu thổ sông Mekong ở Việt Nam là một trong 3 vùng châu thổ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tình trạng biến đổi khí hậu trên thế giới. Việc thiếu nước ngọt đã gây xâm nhập mặn ở các vùng ven biển Thái Lan, Việt Nam và Campuchia, làm giảm lượng nước hồ Tonle Sap ở Campuchia, gây ra sự xáo trộn lớn trong môi trường sinh thái của thủy sản và ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của cả Campuchia và Việt Nam.
TTXVN ghi lời tiến sỹ Hà Thanh Toàn, Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ, cho rằng trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng về nguồn nước sông Mekong, cùng với sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế, cần có tiếng nói kêu gọi tiết kiệm nước cho nông nghiệp, phục vụ nhu cầu gia tăng từ công nghiệp và đô thị, cũng như bảo đảm tính bền vững của môi trường.
Trong khi đó, một bản tin từ báo Thanh Niên đăng trên Bauxite VN cho biết Sông Mê Kông kêu cứu: Phù sa không về, ĐBSCL lâm nguy.
Bản tin ghi lời các chuyên gia dự báo có đến 95% lượng phù sa sông Mê Kông sẽ bị chặn bởi các đập thủy điện, làm tăng tốc quá trình phân rã ĐBSCL.
Theo giới chuyên gia trong nước lẫn quốc tế, lượng phù sa và các trầm tích khác đang sụt giảm nghiêm trọng ở lưu vực sông Mê Kông, nhất là ở vùng ĐBSCL. Không còn phù sa, đất đai bạc màu, đời sống người dân ngày càng khó khăn hơn.
Tuy nhiên, một nguy cơ còn đáng sợ hơn rất nhiều là ĐBSCL có thể bị nhấn chìm và biến mất nếu như tình trạng hiện tại vẫn tiếp diễn.
Số liệu từ Ủy hội Sông Mê Kông (MRC) cho thấy dòng sông cung cấp lượng phù sa lên đến 160 triệu tấn/năm ra khu vực cửa biển vào năm 1994 nhưng đến năm 2014 chỉ còn lại 75 triệu tấn/năm. Tuy chưa có số liệu những năm gần đây nhưng các nhà khoa học cảnh báo tốc độ sụt giảm có thể tính theo cấp số nhân do con người tác động vào nguồn nước ở thượng nguồn như xây đập thủy điện, nạo vét và bơm trữ nước.
Có tới 95% phù sa bị chặn.
Trả lời phỏng vấn Thanh Niên, chuyên gia phụ trách chương trình nước của Tổ chức Bảo tồn WWF Marc Goichot khẳng định ĐBSCL, vùng đồng bằng lớn thứ 3 trên thế giới, đang phải gồng mình hứng chịu nhiều tai họa từ hạn hán đến lũ lụt và xâm nhập mặn trong khi tình trạng ô nhiễm làm giảm chất lượng nước. “Điều này làm gia tăng áp lực lên phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn cũng như tạo động lực di cư đến các đô thị như TP.SG, khiến quản lý đô thị cũng gặp nhiều thách thức. Đồng thời, sự đa dạng sinh học vùng sông nước cũng bị đe dọa”, ông phân tích.
Theo tiến sĩ Dương Văn Ni tại Trường đại học Cần Thơ, các đập thượng nguồn đã làm giảm đáng kể lượng phù sa ở lưu vực sông Mê Kông trong những năm qua. “Khoảng 50% lượng phù sa từ thượng nguồn về phía Lào đã bị giảm. Nếu như nhiều đập tiếp tục xây thì lượng phù sa về VN không còn bao nhiêu. Ước lượng sẽ chỉ còn khoảng 5% lượng phù sa so với trước đây”, ông nhận định với Thanh Niên.
Tiến sĩ Ni cũng ước tính hiện nay lượng cát khô đã giảm 75% và dưới lòng sông hiện chỉ còn lượng cát đã được bồi đắp từ hàng năm trăm trước. “ĐBSCL không nhận lượng cát đáng kể nào do việc xây đập thủy điện và tình trạng khai thác ở thượng nguồn trong khoảng 8 năm gần đây”, ông cho biết.
Phù sa làm đất màu mỡ, cây trái và lúa phát triển tốt hơn, đồng thời người dân cũng sử dụng phân bón ít hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây lượng phù sa rất ít, khiến cỏ dại, sâu bệnh tràn lan, chi phí sản xuất tăng cao rõ rệt. Bên cạnh đó, đồng bằng không còn phù sa bồi lấp đang bị xâm nhập mặn và sụt lún dần.
Bản tin báo Thanh Niên cũng ghi theo Văn phòng Chương trình Tây Nam bộ, trung bình mỗi năm ĐBSCL bị lún đến 2 cm và nặng nhất là khu vực tỉnh Cà Mau, trong khi tình trạng sạt lở ngày càng nghiêm trọng tại nhiều nơi. Nhiều chuyên gia cũng nhận định quá trình kiến tạo ĐBSCL đang bị đảo ngược do mất cân bằng phù sa, dẫn đến nguy cơ biến mất dần. Tác động của biến đổi khí hậu làm mực nước biển dâng và việc khai thác nước ngầm cũng góp phần làm tăng tốc quá trình này. Trong khi đó, tình trạng sạt lở vẫn tiếp diễn ngày càng nhiều ở ven sông và ven biển.
Theo ông Goichot, bản chất của ĐBSCL là các lớp trầm tích bồi đắp với sự tương tác của biển (sóng, thủy triều...) và nếu con người tác động thay đổi lực tương tác này thì sẽ đảo ngược quá trình bồi lấp, tức là “phá hủy” đồng bằng. Tình trạng khai thác cát ở thượng nguồn cũng là nguyên nhân làm sụt giảm bồi đắp trầm tích ở đồng bằng.
Bản tin TTXVN cho biết “Hãy tiết kiệm nước nông nghiệp cho nông dân sông Mekong” là chủ đề và cũng là khuyến cáo của các nhà khoa học nêu ra tại cuộc hội thảo quốc tế ngày 16/3, do trường Đại học Cần Thơ và Học viện Hoàng gia Campuchia phối hợp tổ chức tại thủ đô Phnom Penh.
Hội thảo diễn ra trong bối cảnh giới chuyên gia đang có nhiều lo ngại về những biến đổi bất thường của nguồn nước sông Mekong, gây ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực nông nghiệp, môi trường và kế sinh nhai của hàng triệu người dân hạ nguồn sông Mekong, đặc biệt là Campuchia và Việt Nam.
Hội thảo có sự tham dự của các nhà khoa học đến từ trường Đại học Cần Thơ (Việt Nam), Học viện Hoàng gia Campuchia, Đại học Nông nghiệp Hoàng gia (Campuchia), Viện Kỹ thuật châu Á (AIT, Thái Lan), Đại học Hironori Arai-Chiba (Nhật Bản), Trung tâm Nông nghiệp Đại học bang Louisiana (Mỹ) và một số nhà khoa học khác đến từ Đức, Đan Mạch.
Tại hội thảo, các nhà khoa học khẳng định khu vực châu thổ sông Mekong đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho các quốc gia tiểu vùng sông Mekong và thế giới. Nguồn nước sông Mekong đóng vai trò đặc biệt quan trọng và quyết định đối với nền nông nghiệp của khu vực này.
Tại Việt Nam, vùng châu thổ sông Mekong cung cấp hơn 50% lượng gạo và lương thực, 65% tổng sản phẩm cá và hơn 70% sản lượng hoa quả phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, nhiều năm nay, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là sự tác động của các quốc gia phía thượng nguồn như việc xây dựng các đập thủy điện, đã khiến hạ nguồn sông Mekong cạn kiệt, ô nhiễm, nguồn thủy sản suy giảm, đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu người dân.
Vùng châu thổ sông Mekong ở Việt Nam là một trong 3 vùng châu thổ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tình trạng biến đổi khí hậu trên thế giới. Việc thiếu nước ngọt đã gây xâm nhập mặn ở các vùng ven biển Thái Lan, Việt Nam và Campuchia, làm giảm lượng nước hồ Tonle Sap ở Campuchia, gây ra sự xáo trộn lớn trong môi trường sinh thái của thủy sản và ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của cả Campuchia và Việt Nam.
TTXVN ghi lời tiến sỹ Hà Thanh Toàn, Hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ, cho rằng trong bối cảnh cạnh tranh gia tăng về nguồn nước sông Mekong, cùng với sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế, cần có tiếng nói kêu gọi tiết kiệm nước cho nông nghiệp, phục vụ nhu cầu gia tăng từ công nghiệp và đô thị, cũng như bảo đảm tính bền vững của môi trường.
Trong khi đó, một bản tin từ báo Thanh Niên đăng trên Bauxite VN cho biết Sông Mê Kông kêu cứu: Phù sa không về, ĐBSCL lâm nguy.
Bản tin ghi lời các chuyên gia dự báo có đến 95% lượng phù sa sông Mê Kông sẽ bị chặn bởi các đập thủy điện, làm tăng tốc quá trình phân rã ĐBSCL.
Theo giới chuyên gia trong nước lẫn quốc tế, lượng phù sa và các trầm tích khác đang sụt giảm nghiêm trọng ở lưu vực sông Mê Kông, nhất là ở vùng ĐBSCL. Không còn phù sa, đất đai bạc màu, đời sống người dân ngày càng khó khăn hơn.
Tuy nhiên, một nguy cơ còn đáng sợ hơn rất nhiều là ĐBSCL có thể bị nhấn chìm và biến mất nếu như tình trạng hiện tại vẫn tiếp diễn.
Số liệu từ Ủy hội Sông Mê Kông (MRC) cho thấy dòng sông cung cấp lượng phù sa lên đến 160 triệu tấn/năm ra khu vực cửa biển vào năm 1994 nhưng đến năm 2014 chỉ còn lại 75 triệu tấn/năm. Tuy chưa có số liệu những năm gần đây nhưng các nhà khoa học cảnh báo tốc độ sụt giảm có thể tính theo cấp số nhân do con người tác động vào nguồn nước ở thượng nguồn như xây đập thủy điện, nạo vét và bơm trữ nước.
Có tới 95% phù sa bị chặn.
Trả lời phỏng vấn Thanh Niên, chuyên gia phụ trách chương trình nước của Tổ chức Bảo tồn WWF Marc Goichot khẳng định ĐBSCL, vùng đồng bằng lớn thứ 3 trên thế giới, đang phải gồng mình hứng chịu nhiều tai họa từ hạn hán đến lũ lụt và xâm nhập mặn trong khi tình trạng ô nhiễm làm giảm chất lượng nước. “Điều này làm gia tăng áp lực lên phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn cũng như tạo động lực di cư đến các đô thị như TP.SG, khiến quản lý đô thị cũng gặp nhiều thách thức. Đồng thời, sự đa dạng sinh học vùng sông nước cũng bị đe dọa”, ông phân tích.
Theo tiến sĩ Dương Văn Ni tại Trường đại học Cần Thơ, các đập thượng nguồn đã làm giảm đáng kể lượng phù sa ở lưu vực sông Mê Kông trong những năm qua. “Khoảng 50% lượng phù sa từ thượng nguồn về phía Lào đã bị giảm. Nếu như nhiều đập tiếp tục xây thì lượng phù sa về VN không còn bao nhiêu. Ước lượng sẽ chỉ còn khoảng 5% lượng phù sa so với trước đây”, ông nhận định với Thanh Niên.
Tiến sĩ Ni cũng ước tính hiện nay lượng cát khô đã giảm 75% và dưới lòng sông hiện chỉ còn lượng cát đã được bồi đắp từ hàng năm trăm trước. “ĐBSCL không nhận lượng cát đáng kể nào do việc xây đập thủy điện và tình trạng khai thác ở thượng nguồn trong khoảng 8 năm gần đây”, ông cho biết.
Phù sa làm đất màu mỡ, cây trái và lúa phát triển tốt hơn, đồng thời người dân cũng sử dụng phân bón ít hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây lượng phù sa rất ít, khiến cỏ dại, sâu bệnh tràn lan, chi phí sản xuất tăng cao rõ rệt. Bên cạnh đó, đồng bằng không còn phù sa bồi lấp đang bị xâm nhập mặn và sụt lún dần.
Bản tin báo Thanh Niên cũng ghi theo Văn phòng Chương trình Tây Nam bộ, trung bình mỗi năm ĐBSCL bị lún đến 2 cm và nặng nhất là khu vực tỉnh Cà Mau, trong khi tình trạng sạt lở ngày càng nghiêm trọng tại nhiều nơi. Nhiều chuyên gia cũng nhận định quá trình kiến tạo ĐBSCL đang bị đảo ngược do mất cân bằng phù sa, dẫn đến nguy cơ biến mất dần. Tác động của biến đổi khí hậu làm mực nước biển dâng và việc khai thác nước ngầm cũng góp phần làm tăng tốc quá trình này. Trong khi đó, tình trạng sạt lở vẫn tiếp diễn ngày càng nhiều ở ven sông và ven biển.
Theo ông Goichot, bản chất của ĐBSCL là các lớp trầm tích bồi đắp với sự tương tác của biển (sóng, thủy triều...) và nếu con người tác động thay đổi lực tương tác này thì sẽ đảo ngược quá trình bồi lấp, tức là “phá hủy” đồng bằng. Tình trạng khai thác cát ở thượng nguồn cũng là nguyên nhân làm sụt giảm bồi đắp trầm tích ở đồng bằng.
Gửi ý kiến của bạn