NGÔ ĐỨC KẾ
(1878 - 1929)
Ngô Đức Kế hiệu Tập Xuyên, quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, con quan Tham tri Ngô Huệ Liên.
Năm 1901, ông đỗ Tiến sĩ, trước cảnh nước nhà đang lệ thuộc Pháp, ông không ra làm quan, lại đồng lập “Triều Dương thương điếm” ở Vinh với Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn Hân theo đề nghị của nhà cách mạng Phan Bội Châu, để buôn bán hàng nội, trợ cấp kinh phí cho phong trào Đông du. Ông là người tin cậy của người chủ chốt phong trào Đông du là Phan Bội Châu, mong mỏi diệt thực dân Pháp cứu nước vào đầu thế kỷ 20.
Năm 1908, Ngô Đức Kế bị kết án đày đi Côn Đảo với các chiến hữu, đến năm 1921 mới được trả tự do.
Năm 1922, ông ra Hà Nội làm báo “Hữu Thanh” để tiếp tục hoạt động “khai dân trí, chấn dân khí” bằng những bài thơ văn nồng nàn yêu nước, nhen nhúm tinh thần đấu tranh, như các bài nghị luận: “Nền quốc văn”, “Luận về chính học cùng tà thuyết”, đăng công khai trên báo, hoặc bài thơ “Hỏi Gia Long” năm 1924, đả kích nhà vua bù nhìn Khải Định, kẻ buôn dân bán nước.
Báo Hữu Thanh bị đóng cửa, Ngô Đức Kế mở “Giác quần thư xã”, nhằm mở mang dân trí. Ông cũng là người sưu tầm và công bố thơ văn của hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Ông đả kích chủ trương đề cao Truyện Kiều của Phạm Quỳnh; ông nghĩ rằng tác phẩm này gây cho giới thanh niên: “Say sưa trong sự yêu đương mà quên mất tâm hồn của mình nên sắt son với đất nước?!”
Ông là người được bằng hữu nể nang nên đã thay mặt các chiến hữu đọc lời điếu Phan Chu Trinh.
Ngày 10-12-1929, ông mất, hưởng thọ 51 tuổi.
Các tác phẩm chính của ông: Đông Tây vĩ nhân; Phan Tây Hồ di thảo; Thái nguyên thất nhật quang phục ký...
Cảm phục: Ngô Đức Kế
Ngô Đức Kế, công danh dửng dưng!
Thiết tha phục quốc, nỗi niềm chung
Đoạ đày Côn Đảo, không nao núng
Nòi giống điêu linh, quyết vẫy vùng!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn