Hôm nay,  

Kinh tế học trong thời kỳ bất ổn chính trị

05/12/201610:02:00(Xem: 4012)
Kinh tế học trong thời kỳ bất ổn chính trị
 
Michael Spence
Đỗ Kim Thêm dịch
 

Trong hơn 35 năm qua, các nền dân chủ phương Tây đã chứng kiến môt sự bộc phát về tình trạng bất ổn chính trị, mà đặc điểm chính là do sự thay đổi thường xuyên trong các đảng cầm quyền và các chương trình và quan điểm triết lý của họ, tình hình này ít nhất một phần là do việc thay đổi và khó khăn kinh tế. Vấn đề hiện nay đặt ra là làm thế nào để cải thiện thành tựu kinh tế trong một thời điểm khi các bất ổn chính trị đang làm cản trở việc tạo lập một chính sách có hiệu quả.
 

Trong một bài báo gần đây, David Brady, một trong các cộng sự viên của chúng tôi, cho thấy là có mối quan hệ giữa tình hình bất ổn chính trị ngày càng tăng và mức thành tựu kinh tế ngày càng giảm. Ông chỉ ra rằng các nước có thành tựu kinh tế dưới mức trung bình đã trải qua những biến động nhất trong các cuộc bầu cử. Cụ thể hơn là có sự bất ổn này tương ứng cùng với vấn đề giảm phần đóng góp của nhân dụng trong khu vực công nghiệp hoặc sản xuất ở các nước tiên tiến. Mặc dù mức độ giảm có đôi chút khác nhau giữa các quốc gia – ví dụ tình trạng này ít thể hiện rõ nét ở Đức hơn là ở Hoa Kỳ, - đó là một mô hình khá phổ biến.
 

Đặc biệt là trong hơn 15 năm qua, công nghệ kỹ thuật số ngày càng mạnh cho phép tự động hóa và xóa bỏ các công việc "theo thông lệ " trong giới công chức và công nhân. Với những tiến bộ về người máy, tài liệu, kỹ thuật 3D, và thông minh nhân tạo, người ta có thể mong đợi một cách hợp lý là các phạm vi công việc "theo thông lệ" có thể được tự động hoá sẽ tiếp tục mở rộng

Sự trỗi dậy của công nghệ kỹ thuật số cũng làm tăng khả năng quản lý của doanh nghiệp trong việc điểu khiển một cách hiệu quả về nhiều chuỗi cung ứng trên toàn cầu do nhiều nguồn phức tạp, và do đó mà doanh nghiệp tận dụng được lợi thế trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu. Khi các dịch vụ ngày càng trở nên có thể trao đổi mậu dịch (xuất khẩu), việc làm trong khu vực công nghiệp sản xuất giảm đều đặn, mức giảm từ 40% trong năm của thập niên 1960 đến khoảng 20% hiện nay. Nhưng ở các nước tiên tiến nhất, các khu vực có thể giao hoán (xuất khẩu) đã không tạo ra nhiều công việc, ít nhất là không đủ để bù đắp sự sụt giảm trong khu vực chế biến. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, việc phát sinh nhân dụng trong 1/3 của nền kinh tế sản xuất cho hàng hóa và dịch vụ để có thể xuất khẩu, nói chung, thì hầu như không tạo công việc trong vòng hai thập niên qua.
 

Một phần là do tác động của những khuynh hướng này mà tỷ trọng thu nhập quốc gia của khu vực lao động trong những năm đầu tiên của thời kỳ hậu chiến đã tăng lên, nó bắt đầu giảm vào những năm của thập niên 1970. Trong khi toàn cầu hóa và công nghệ kỹ thuật số đã tạo ra những lợi ích trên diện rộng, trong các hình thức chi phí thấp hơn cho hàng hóa và trong mảng rộng cuả các dịch vụ, tất cả cũng đã tạo ra và sự phân cực trong công việc và thu nhập, trong khi loại công việc có thu nhập trung bình có phần giảm và loại công việc có thu nhập cao hơn và thấp hơn có phần tăng, từ đó tạo ra hố cách biệt cách trong việc phân phối lợi tức. Do hệ thống an sinh xã hội và các đối sách khác nhau, mà mức độ của sự phân cực này thay đổi tùy theo từng quốc gia.

Cho đến năm 2008, khi cuộc khủng hoảng kinh tế tác động nhiều nơi trên thế giới, những mối quan tâm liên quan đến sự bất bình đẳng ngày càng tăng lên, ít nhất một phần nó bị che khuất bởi nợ công cao, với mức công chi và các hiệu ứng thịnh vượng từ giá tài sản tăng, nó hỗ trợ cho việc tiêu thụ trong gia dụng và làm vực dậy tăng trưởng và tạo được việc làm. Khi mô hình tăng trưởng đó bị phá vỡ, tình hình kinh tế và chính trị xấu đi nhanh chóng.

Chuyện rõ ràng nhất là giảm tăng trưởng và nhân dụng đã tạo những tác động trái ngược trong sự phân cực công việc và thu nhập. Ngoài những vấn đề thực tế hiển nhiên này, tình hình còn gây ảnh hưởng về ý nghĩa bản sắc của người dân.
 

Trong thời đại công nghiệp hậu chiến, người ta có thể mong đợi một cách hợp lý là đạt được một cuộc sống tươm tất, hỗ trợ gia đình, và đóng góp một cách rõ ràng cho sự thịnh vượng chung của đất nước. Bị đẩy vào lĩnh vực dịch vụ không có giá trị giao dịch, với mức thu nhập thấp và việc làm ít bảo đảm, tất cả tạo ra tình trạng mất tự tin, cũng như oán giận đối với hệ thống mang lại sự thay đổi. (Nó cũng không giúp gì trong khi hệ thống này giải cứu các chính phạm gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế, đó là ngành tài chính - một trào lưu thể hiện một sự khác biệt rõ rệt giữa tình hình khẩn cấp và sự sòng phẳng).

Trong khi sự thay đổi kinh tế do công nghệ điều động không phải là chuyện mới, chuyển biến này đã không bao giờ xảy ra một cách nhanh chóng hoặc trên một quy mô lớn như đã xảy ra trong hơn 35 năm qua, khi nó đã được tăng tốc theo nhịp của trào lưu toàn cầu hóa. Nhờ kinh nghiệm và có may mắn làm nhiều người dân thay đổi nhanh chóng, giờ đây họ tin rằng động lực mãnh liệt đang hoạt động ngoài sự kiểm soát của cơ cấu chính quyền hiện có, thoát khỏi sự can thiệp của chính sách. Và ở một mức độ nào đó thì họ có lý.

Kết quả là tình trạng mất niềm tin đang lan rộng về các động cơ thúc đẩy, khả năng và thẩm quyền của chính phủ. Cảm xúc này có vẻ như không giảm khi người ta nhận ra được tính cách phức tạp của các thách thức, mà nội dung của nó là nhầm duy trì các động lực khích lệ và các năng động trong khi phải giải quyết tình trạng bất công ngày càng tăng (trong trường hợp đặc biêt nhất là làm giảm đi các bình đẳng về cơ hội và năng động giữa các thế hệ).

Như Brady chứng minh là trong thời kỳ ổn định hơn ngay sau Đệ Nhị Thế chiến, các mô hình phát triển phần lớn đều tạo thuận lợi theo góc độ phân phối và các đảng phái chính trị đã được tổ chức chủ yếu là xoay quanh lợi ích của lao động và tư bản, nó được bao phủ qua lợi ích chung do Chiến tranh Lạnh. Khi kết quả đã ngày càng trở nên bất bình đẳng, đã có một sự phân hoá của các lợi ích trong phạm vi bầu cử, dẫn đến sự bất ổn trong kết quả bầu cử, tê liệt chính trị, và thay đổi thường xuyên trong khuôn khổ chính sách và đường hướng.
 

Điều này mang lại một số hậu quả kinh tế. Một là sự bất trắc do chính sách gây ra, mà trong đó trong hầu hết các trường hợp, nó đưa tới một sự trở ngại chính cho đầu tư. Một trở ngại khác là sự thiếu rõ ràng trong sự đồng thuận về một chương trình nghị sự để phục hồi tăng trưởng, giảm thất nghiệp, tái thiết lập một mô hình nối kết toàn diện, và duy trì những lợi ích của sự liên kết toàn cầu.

Ở một mức độ, thật là khó khi không nhận ra vấn đề này như là một chu kỳ hủy diệt tự tạo. Bất ổn chính trị làm giảm khả năng xác định và thực hiện một chương trình nghị sự về chính sách kinh tế toàn diện hợp lý, chặt chẽ và bền vững. Kết qủa về tình trạng dai dẳng của tăng trưởng chậm, thất nghiệp nhiều, bất công lan rộng tạo nên bất ổn chính trị liên tục và phân hoá, trong đó nó tiếp tục làm suy yếu khả năng các giới chức trong việc thực thi các chính sách kinh tế cho có hiệu quả.
 

Nhưng ở một mức độ khác, những khuynh hướng này thực sự có thể chứng minh là lành mạnh, đứng trước những lo ngại về toàn cầu hóa, chuyển đổi cơ cấu và điều hướng - mà cho đến nay nó đã được thể hiện chủ yếu ở các đường phố - thì trào lưu này tạo nên một tiến trình chính trị. Cuối cùng, sự kết nối trực tiếp giữa các mối quan tâm của người dân và chính quyền theo kiểu này là một sức mạnh chính của dân chủ.

Khi một quốc gia đang phát triển bị mắc kẹt trong một trạng thái cân bằng không tăng trưởng, tìm sự đồng thuận về tương lai để tăng trưởng toàn diện luôn luôn là bước quan trọng đầu tiên hướng tới việc đạt được hiệu quả kinh tế tốt hơn và các chính sách hỗ trợ. Đó là những gì các nhà lãnh đạo làm việc có hiệu năng nhất đã thực hiện. Đối với các nước đang phát triển nguyên tắc là cũng giống nhau. Hy vọng lớn nhất của chúng tôi là các nhà lãnh đạo ngày nay hiểu và sẽ tuân thủ nó, từ đó tạo năng lượng sáng tạo để làm việc trên một tầm nhìn mới mà áp dụng những nước của họ, taọ ra một con đường dẫn đến sự thịnh vượng và công bằng hơn.

 

***

 

Michael Spence đoạt giải Nobel Kinh tế, Giáo sư Kinh Tế học tại NYU Stern School of Business, tác giả cuốn The Next Convergence – The Future of Economic Growth in Multispeed World. Nguyên tác: Economics in a Time of Political Instability.

           

https://www.project-syndicate.org/commentary/inclusive-growth-political instability-by-michael-spence-and-david-brady-2016-03



.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.