Chú Giải
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký
Nguyễn Văn Sâm
(Chuyện 64-65. Sẽ đăng tiếp)
Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.
Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn
1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..
2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.
Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).
Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.
Victorville, CA, tháng 11, 2016
64. Ông thầy ăn khín[1] bánh của học trò.
Có một nhà giàu có, sinh đặng một đứa con trai. Con nhà giàu, lại là con một, nên tưng lắm. Khi được năm sáu tuổi, cha mẹ nó muốn cho con đi học, mà sợ tới trường học, học trò nhiều đứa ngang tàng rắn mắt ăn hiếp chăng.
Mà anh thầy ấy hay ăn thép[2]. Bữa kia mẹ thằng ấy đi chợ về, mua cho một tấm đường hay là cái bánh ngọt tròn tròn mà lớn. Con nó ra mừng mẹ đi chợ về, mẹ nó đưa bánh cho nó, nó mừng cấp ca cấp củm[3] ôm lấy tiếc, chưa dám ăn, cầm chơi để dành.
Thầy thấy thèm, mới kêu thằng học trò lại. (tr. 91)
Nầy, con đem lại cho thầy tập nghe nghĩa cho con. Nó tình ngay thiệt thà, lật đật cầm đem lại. Thầy lấy lấy, rồi để ra giữa cái ghế, mới giả đò nghe sách[4] cho nó coi: Ngôi Thái cực là như vầy (để ra giữa nguyên y lé như vậy). Rồi bẻ hai ra mà nói rằng: Như vầy là Thái cực sinh Lưỡng nghi. Rồi lại bẻ ra làm bốn, mà nói rằng: Như vầy là Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Rồi thầy cầm lấy cái bánh, nói: Còn như vầy là Tứ tượng biến hóa vô cùng, cầm đem lủm phứt cái bánh đi.
Thằng học trò nó mới lăn ra, nó giãy, nó khóc. Mẹ nó nghe mới kêu mới hỏi, thì nó nói: Thầy nói để thầy tập nghe nghĩa[5] cho tôi, rồi thầy ăn cái bánh của tôi đi.
65. Con thỏ gạt con cù, cứu cá mà ra khỏi nơm.
Con thỏ ở nhằm chỗ đồng khô cỏ cháy, không có cỏ rác mà ăn cho no, tính qua sông, đi sang xứ khác thì nói với con cù[6] rằng: Anh chịu khó chở tôi qua bên kia sông, thì sau tôi sẽ gả chị tôi cho anh. Cù đưa tới giữa sông, cù hỏi: Cái lưng tôi vậy ngồi có êm, có tốt không? Thỏ nói: còn nói chi nữa, đã láng thì chớ, mà lại mát nữa. Con cù chở qua tới bờ, (tr. 92) nó lên rồi nó lại nói: ‘Cực chẳng đã tao mới ngồi trên lưng mầy mà thôi, tanh hôi dơ dáy quá, chị ở đâu mà đem gả cho uổng. Nói vậy rồi bỏ đi đi.’
Lên bờ, thấy cảnh mới vui vẻ xinh tốt, đi lần vô moi khoai người ta mà ăn. Chủ vườn giận gài bẫy đánh[7]. Thỏ quen chừng qua bữa sau cũng tới đó ăn, mắc bẫy.
Người ta bắt được đem về, lấy cái nơm chụp lại để gần một bên cái chậu cá. Mà trong nhà bữa ấy tính làm việc chi đó, nghe nói: hai con cá với con thỏ thì đủ dọn. Con thỏ nói với hai con cá rằng: Hai anh biết, họ tính làm thịt ta đó. Mà hai anh có muốn ra cho khỏi hay không?
Cá nói:
_Làm sao không muốn? Muốn lắm mà không được chớ.
– Vậy thì làm vầy: hai anh nghe lời tôi thì xong: cắn đuôi nhau mà vùng cho mạnh cho sạt bể hai cái chậu ra, thì lóc mà xuống hồ thì thôi, họ bắt không đặng đâu.
Hai con cá nghe lời ra sức vùng bể chậu đi. Thỏ cao mưu kêu: Bớ ông chủ, cá đi cà. Trong nhà lật đật ra xách nơm theo mà chụp cá. Thỏ vùng chạy vụt đi mất. Đã cứu đặng cá mà lại cứu đặng mình nữa. (tr. 93)
[1] Ăn khín: Ăn chực, ăn của người khác. Xưa nói ăn nhờ, ăn thép. Từ ngữ ăn khín ít xài hơn từ bận quần/ áo khín vì thói thường mặc áo khín bị chật quá hay rộng quá con nít hay chọc. Con nít xưa có bài hát chọc nhau: Mặc áo khín. Lấy chồng lính. Đẻ con so. Bắt vô lò. Nổ cái bụp. Lâu nay không còn nghe nữa, xin chép lại để dành.
[2] Ăn thép: X. Ăn khín.
[3] Cấp ca cấp củm: Giữ vật gì với cách thế trân quí.
[4] Giả đò nghe sách cho nó coi: Làm bộ như nó sẽ được giảng sách để học..,
[5] Thầy tập nghe nghĩa: Thầy tập cho học trò nghe giảng nghĩa theo sách.
[6] Con cù: Loài vật huyền thoại sống ở đáy sông biển, rất lớn. Cù thường nằm im, khi dậy thì nổi sóng hay tạo thành cù lao.
[7] Gài bẫy đánh: Đặt bẫy, giăng bẫy, gài bẫy để bắt…
.