Hôm nay,  

Vai Trò, Ý Nghĩa Của Nhận Thức Về Vô Thường Trên Con Đường Tu Tập Giải Thoát

19/05/201600:00:00(Xem: 6434)
Sabbe sankhara anicca!

Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường!

Đó là một sự thật! Cũng là lời di huấn cuối cùng của Đức Bổn Sư dành cho chúng ta trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh:

“Này các tỷ kheo, Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật.”

Là người con Phật chúng ta cần suy nghiệm cho thật kỹ về lời di huấn tối hậu này của bậc từ Phụ.

Sự thật Vô Thường này là đương nhiên, đang phơi bày chính nó, ngay trước mặt của chúng ta, 24/7, không có gián đoạn, ngay cả lúc ta đang ngủ.

Vô thường không bị chi phối bởi thời gian, tức là tất cả Pháp vô thường trong cả ba thời: quá khứ, hiện tại, và tương lai.

Vô thường không bị giới hạn trong không gian, tức là cả vũ trụ này vô thường, cả thiên giới, ma giới, và nhân giới đều vô thường.

Ngay cả thân ngũ uẩn của ta cũng vô thường: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.

Vô thường là sự thật không phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta, tức là dù chúng ta có nhận ra, hay không nhận ra, điều đó không thay đổi được gì về sự thật này: Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường. Nhưng nếu ta tinh tấn, không phóng dật, hành trì lời di huấn của Đức Từ Phụ, tác ý thật sâu để nhận ra và sống đúng với quy luật vô thường thì chúng ta sẽ bớt khổ. Vì thế hãy đến để thấy đúng như thật như vậy sự thật này: “Vô Thường.”

Vô thường là một sự thật, tuy hiển nhiên như vậy, nhưng không phải ai ai cũng có nhận thức sâu sắc về điều đó. Độ sâu của nhận thức vô thường này tùy thuộc vào công phu tu tập của từng người.

Kết quả của việc làm cho sung mãn nhận thức vô thường này thật to lớn, không thể nghĩ bàn:

Phật dạy trong Kinh Tương Ưng Bộ về lợi ích đó như sau:

“Này các Tỷ-kheo:

-- Do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường một cách sâu sắc, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả tham đắm về tất cả các hình tướng được chấm dứt, tất cả khao khát hiện hữu cảnh giới này cảnh giới kia được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một người làm ruộng, vào mùa thu, dùng một cái cày lớn cắt đứt tất cả rễ mọc trong khi cày. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt, tất cả hữu tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.”(ngưng trích)

Trong ví dụ trên, nhận thức về vô thường được dụ như lưỡi cày lớn và sắc bén, có thể cắt đứt tất cả rễ cây trong khi cày. Trong ví dụ này, rễ cây ví dụ cho khát ái, vô minh, và ngã mạn; hành động cày bừa dụ cho công phu tu tập. Còn “nhận thức vô thường” chính là lưỡi cày. Cũng giống như chiếc cày là dụng cụ không thể thiếu của người nông dân, như vậy nhận thức sâu sắc về vô thường là một “dụng cụ” không thể thiếu của người tu.

Như vậy chúng ta cần phải tu tập, rèn luyện nhận thức về vô thường như thế nào, để làm cho lưỡi cày ngày càng sắc bén? Làm thế nào để cho sung mãn “nhận thức vô thường” khiến cho tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ?

Nhận thức Vô thường về Pháp có hai loại:

1. Nhận thức về vô thường của các hiện tượng thế gian bên ngoài.

2. Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, năm khối cấu tạo nên con người.

Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài là kết quả của sự quan sát tinh tế (chủ quan) kết hợp với tư duy hợp lý, để đưa đến kết luận về sự vô thường của thế giới hiện tượng. Nhận thức này được xếp vào Tư Tuệ trong Tam Tuệ của Văn Tư Tu.

Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, chính là gốc rễ của sự tu hành. Vì một khi Ngũ Uẩn, và đặc biệt hơn hết chính ý thức, cũng được nhận ra một cách sâu sắc là vô thường thì đối tượng của ý thức, tức là thế giới hiện tượng, không thể nào được xem là thường hằng được.

Như vậy đối tượng chính để rèn luyện, làm cho sắc bén, làm cho sung mãn nhận thức vô thường chính là tự thân bên trong chứ không phải là thế giới hiện tượng bên ngoài.

Vì sao? Vì “thế giới hiện tượng” là thế-giới-hiện-ra-của-những-hình-tượng ( hay là thế giới khái niệm) cho tự thân kinh nghiệm. Thế giới hiện ra là do tự thân, cho tự thân, và vì tự thân. Khi tự thân còn thì thế giới còn. Khi tự thân diệt, thì thế giới diệt. Một khi tự thân ngũ uẩn được nhận ra là vô thường, là rỗng không, là không thực chất tính, thì thế giới cũng vì thế tương ưng.

Sự vô thường của tự thân ngũ uẩn có hai khía cạnh cần phải nhận ra rõ ràng rốt ráo ngay trong sát na đang là của chính nó:

1. Nhận ra sự sanh khởi ngay trong sát na đang là của chính nó

2. Nhận ra sự đoạn diệt ngay trong sát na đang là của chính nó

Phàm cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt! Sanh Sanh Diệt Diệt: Đó chính là vô thường!

Để thiết lập nhận thức sâu sắc về sự vô thường của tự thân thì: Đối với từng uẩn một trong năm uẩn, ví dụ đối với sắc uẩn, chúng ta cần bình thản, chân chánh nhận rõ:

1. Đây là Sắc.

2. Đây là Sắc tập khởi.

3. Đây là Sắc đoạn diệt.

Tương tự như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành, và Thức:

1. Đây là Thức.

2. Đây là Thức tập khởi.

3. Đây là Thức đoạn diệt.

Chúng ta cần để ý đến cấu trúc câu “Đây là…X” của Phật dạy. “Đây là...X” chỉ có ý nghĩa nếu nó được nhận diện trong sát na đang là của X. Bằng không cấu trúc câu sẽ mất đi ý nghĩa “như thật- như vậy” của nó và không còn có tính chất phơi bày như một sự thật mà chỉ trở thành một thói quen lầm bầm “Đây là…X”, “Đây là…X” một cách máy móc.

Nếu “nhận thức về vô thường” được tu tập như vậy ngay trên tự thân, được làm cho sung mãn như vậy ngay trên tự thân ngủ uẩn, thì “tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt; tất cả hữu tham được chấm dứt; tất cả vô minh được chấm dứt; tất cả ngã mạn được tận trừ.” Tức là đúng như lời dạy của Đức Phật Thích Ca.

Phật Tử làm được như vậy và vị Thừa Tự Pháp, làm cho Chánh Pháp được trường tồn ở thế gian, là con Phật. Là người thi hành đúng Di Giáo của đức Từ Phụ.

Nguyện cho chánh pháp của thế tôn luôn được gìn giữ trong đời sống hàng ngày của từng người Phật Tử vì hạnh phúc thực sự và an lạc thực sự cho muôn loài.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Ý kiến bạn đọc
21/05/201604:33:21
Khách
Vô Thường dich ra tiêng Mỹ, tiêng Pháp là gi?

Dùng Google translator dịch thử:
Vô Thường dịch ra tiếng Mỹ là impermanent, dịch ra tiếng Pháp là fugace.
Không biết có đúng không.
19/05/201617:30:09
Khách
Tui cũng lõm bõm học chút đỉnh phật pháp, lại lanh chanh xin bàn loạn chút cho vui. Nếu dùng ngôn ngữ như là phương tiện để tạm diễn tả chân lý thì hình như Phật Tánh là pháp vô vi, không phải là pháp hữu vi. Mà muốn hiểu rõ thì phải định nghĩa Phật Tánh là gì rồi mới bàn được. Tôi tạm định nghĩa Phật Tánh là Tánh Phật,là tánh rỗng rang, trong sáng, toàn thiện, toàn mỹ, thanh tịnh, an lạc vv... Mà muốn tự cảm nhận, tự thể nghiệm được Phật Tánh có Diệt được không thì mình chắc phải tự thực hành tu tập để có chút Phật Tánh trước
đã. Theo cùng lý luận thô thiển của tôi thì muốn biết Nghiệp có diệt được không? Vọng Tưởng có diệt được không? thì chắc cũng phải ráng tu tập thực nghiệm mới biết được. Mà cho là hiểu theo pháp hữu vi và có tánh tích cực đi thì mình hy vọng là nghiệp xấu diệt được đi, nghiệp tốt hy vọng tăng trưởng, vọng tưởng diệt được đi, và hy vọng sự an lạc trong tâm hồn đến với mọi người.
19/05/201614:34:06
Khách
Vô Thường dich ra tiêng Mỹ, tiêng Pháp là gi?
Cám ơn
19/05/201610:41:28
Khách
Xin Hỏi Thăm PHẬT TÁNH Có Diệt Không ?
Nghiệp Có Diệt Được Không ?
Vọng Tưởng Có diệt được không ?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.