Hôm nay,  

Quan Hệ Việt-Mỹ Sau 20 Năm Cải Tiến

06/08/201500:00:00(Xem: 5464)

An ninh nước Việt, hay nhân quyền và dân chủ của người Việt phải xuất phát từ VN...

Sau chuyến thăm viếng Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và cuộc hội kiến Tổng thống Mỹ vào tháng trước, tuần này, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tới Việt Nam dự lễ kỷ niệm 20 năm tái lập bang giao giữa hai nước. Diễn đàn Kinh tế kiểm điểm lại biến cố ấy qua phần trao đổi sau đây của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa với Nguyên Lam.

Nguyên Lam: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, tuần này Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry sẽ thăm Việt Nam trong hai ngày và tham dự nhiều sinh hoạt kỷ niệm 20 năm sau khi hai quốc gia bình thường hóa quan hệ ngoại giao kể từ Tháng Tám năm 1995. Nhân dịp này, chúng tôi đề nghị ông kiểm điểm lại hai chục năm bang giao giữa hai nước sau một cuộc chiến kéo dài quá lâu.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Quan hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam đã manh nha một cách gián tiếp khi Hoàng tử Cảnh của vua Gia Long gặp ông Thomas Jefferson vào cuối thế kỷ 18, và trực tiếp khi ông Bùi Viện gặp Tổng thống Ulysses Grant vào hạ bán thế kỷ 19. Cả hai lần đều không thành vì khi ấy Hoa Kỳ nhìn qua hướng khác. Sau đó là từ những năm 1945 tới 1954 thì thành mà cũng... thành đại họa cho Việt Nam do rất nhiều khúc mắc của lịch sử và sự thiếu hiểu biết của Hoa Kỳ….

- Gần đây hơn thì ta có biến cố của 15 năm trước khi Hoa Kỳ ký Hiệp định Thương mại Mỹ-Việt và cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc từ năm 2001; hay 20 năm trước, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế vào năm 1994 rồi thiết lập bang giao với chế độ Hà Nội vào năm 1995.

Nguyên Lam: Ông vừa nói đến sự thiếu hiểu biết của Hoa Kỳ. Ông có thể nào khai triển ý này không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi Thế chiến II bùng nổ tại Á Châu Thái Bình Dương, Hoa Kỳ thực tế lãnh đạo khối Đồng minh và thắng quân Nhật mà không biết gì nhiều về các nước Á Châu khác. Đó là một lẽ. Sau khi chiến thắng năm 1945, lãnh đạo Hoa Kỳ cũng thiếu cái nhìn quán triệt về Châu Á và về số phận của các quốc gia từng bị là thuộc địa của Âu Châu. Khi ấy Châu Á còn là nạn nhân của sự bành trướng cộng sản và bị lôi vào Chiến tranh lạnh, làm lãnh đạo nước Mỹ cứ dời đổi mục tiêu, từ giải phóng các thuộc địa sang be bờ chống cộng. Việt Nam bị kẹt trong đó vì sự bành trướng của khối cộng sản do Liên bang Xô viết và nhất là Trung Quốc tổ chức và yểm trợ.

- Đặc biệt nhất, Hoa Kỳ không hiểu gì về lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam, và về bản chất của cuộc chiến toàn diện do Trung Quốc chỉ đạo từ khi cộng sản thắng tại Hoa lục năm 1949 và lại còn suy tính từ lối trận địa chiến của Chiến tranh Cao Ly. Họ cũng chẳng biết rằng trong cuộc chiến chống Nhật tại Thái Bình Dương, Hoa Kỳ từng oanh tạc quân Nhật trên lãnh thổ Việt Nam mà dân Việt vẫn không chống Mỹ, vì hiểu cái giá phải trả cho hòa bình và độc lập. Sau này nhiều người Mỹ ngạc nhiên vì sao dân Miền Bắc không hề oán Mỹ mà lại coi thường cán bộ Liên Xô. Ngày nay, qua các cuộc khảo sát ý kiến thì dân Việt Nam thuộc loại “thân Mỹ” nhất Đông Nam Á với tỷ lệ cực cao, năm nay là 78%!

- Bây giờ, dân Mỹ dần dần hiểu ra mà một số vẫn hiểu sai, vì những gì là bản sắc Việt Nam thì họ lại cho là nhờ chế độ cộng sản! Họ không phân biệt được chế độ chính trị ở trên với xã hội bên dưới, và chẳng biết rằng trong nhiều thập niên, chế độ ấy đã ra sức “cải tạo xã hội”, tức là tiêu diệt bản sắc văn hóa của người dân. Chuyện văn hóa ấy cũng chi phối kinh tế mà người ta không hay.

Nguyên Lam: Nói về kinh tế, thưa ông, trước năm 1975, ông từng là công chức cao cấp về kinh tế tại Sàigòn, Nguyên Lam xin hỏi là ông nghĩ sao về chánh sách kinh tế Hoa Kỳ đã áp dụng ở trong Nam?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Đấy cũng là một tiêu biểu khác của sự thiếu hiểu biết và có thể là một trong nhiều nguyên nhân thất bại sau khi Hoa Kỳ tham chiến vì lý do rất chính đáng.

- Miền Nam là nơi có chiến tranh du kích, phá hoại và khuynh đảo mà phải vừa ứng chiến vừa xây dựng dân chủ với nền kinh tế tự do. Hoa Kỳ lại viện trợ cho một nước chiến tranh đó theo cách viện trợ để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản là các nước đã công nghiệp hóa, chỉ bị tàn phá trong chiến tranh và nay đã có hòa bình. Lối viện trợ ấy của Mỹ không thích hợp với nhu cầu, lại còn khuyến khích tiêu thụ để phần nào tài trợ chiến phí, là mâu thuẫn sinh tử nếu ta nhớ đến hình thái chiến tranh toàn diện và yếu tố chính trị do Miền Bắc gây ra. Thí dụ như Mỹ viện trợ cho Pháp sau chiến tranh mà đảng Cộng sản Pháp đi vào bưng biền để đánh du kích và nghiệp đoàn CGT ở hậu phương với nhiệm vụ phá hoại tư bản chủ nghĩa thì mười Kế hoạch Marshalls cũng thất bại!

Nguyên Lam: Xin hỏi ông thêm một câu trước khi chúng ta trở về hiện tại. Hoa Kỳ cũng đã từng viện trợ cho Nam Hàn hay Đài Loan và hai xứ ấy đều thành công về kinh tế dù có bị Bắc Hàn hay Trung Quốc tấn công, tại sao như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hai xứ ấy có thể bị vài đợt tấn công từ bên ngoài, mà không bị xâm nhập và nội loạn bên trong như trường hợp Miền Nam. Ngoài ra, chính cuộc chiến tại Việt Nam lại tạo cơ hội cho hai xứ ấy và cho các nước Đông Nam Á quanh Việt Nam có hòa bình để phát triển. Ngày nay, ngần ấy quốc gia đều thịnh vượng và tân tiến hơn Việt Nam gấp bội.

- Trong tập hồi ký thứ hai, xuất bản năm 2000, ở Chương 28, cố Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore có viết về chuyện đó và cám ơn Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam để giúp các nước Đông Nam Á khỏi bị Cộng sản Trung Quốc khuynh đảo và tạo điều kiện cho Đông Nam Á phát triển. Lãnh đạo Hà Nội nên đọc cuốn sách đó để rút ra bài học về lẽ thắng bại của dân tộc dưới sức ép của Trung Quốc trong khi Mỹ chẳng chiếm một quận huyện hay hòn đảo nào của Việt Nam! Kỳ họp tuần này của Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á ASEAN có cho ta thấy hai điều ấy khi phô bày sự thịnh vượng của các nước sáng lập ASEAN và mối nguy của Trung Quốc.


Nguyên Lam: Trở lại chuyện hiện tại thì trong 20 năm qua., Hoa Kỳ đã làm gì cho Việt Nam?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta cần nhắc lại vài dấu mốc căn bản sau đây:

- Sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế năm 1994, Hoa Kỳ tái lập bang giao với Việt Nam năm 1995. Từ đấy, các chính quyền cả Dân Chủ lẫn Cộng Hoà, đều tích cực giúp Việt Nam cải thiện kinh tế với cao điểm là năm 2001, khi Tổng thống Bill Clinton cho ký hiệp định thương mại song phương Mỹ-Việt, bên trong có điều khoản tạm chấp nhận quy chế tối huệ quốc, là mậu dịch bình thường – hay NTR – được tái xét hàng năm. Quy chế NTR trở thành vĩnh viễn và thường trực từ năm 2007 khi Hoa Kỳ thời ông George W. Bush mở cửa cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Lý do chính thức là nếu cải thiện kinh tế sẽ cải thiện chính trị, nhưng Hà Nội lại gọi đó là "âm mưu diễn biến hoà bình"!

Nguyên Lam: Thưa ông, thế rồi từ đó, tình hình Việt Nam có thay đổi không?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Từ đó, tình hình kinh tế Mỹ-Việt có đổi khác. Tôi xin được nêu vài con số về sự đổi khác nhưng nhấn mạnh rằng đời sống đa số người dân Việt Nam thì vẫn chưa.

- Từ 1994 đến cuối năm 2008 là sau khi gia nhập tổ chức WTO, xuất khẩu của Việt Nam qua Mỹ đã từ 50 triệu Mỹ kim tăng đến hơn 12.000 triệu, tức là hơn 12 tỷ, gấp 250 lần. Ngược lại, xuất khẩu của Mỹ qua Việt Nam chỉ tăng từ 172 triệu Mỹ kim lên gần hai tỷ bảy - gấp 15 lần thôi.

- Về đại thể, từ 1995 Việt Nam liên tục đạt xuất siêu - là xuất nhiều hơn nhập cảng - với Hoa Kỳ. Kỷ lục là năm ngoái xuất hơn 30 tỷ mà nhập có năm tỷ bảy, xuất siêu gần 25 tỷ Mỹ kim. Nghĩa là Việt Nam có lợi lớn trong quan hệ buôn bán với Mỹ. Nhưng lời được bao nhiêu thì Việt Nam lại... trả cho Trung Quốc vì bị nhập siêu ngạch số tương đương với nước láng giềng phương Bắc!

- Nếu bảo rằng Hoa Kỳ bang giao với Việt Nam để tư bản của Mỹ trục lợi nhờ nhân công rẻ của Việt Nam thì người ta lại lầm nữa vì trong quan hệ kinh tế giữa hai nước, Việt Nam có lợi hơn và doanh nghiệp Mỹ cũng chẳng dẫn đầu trong số đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.

Nguyên Lam: Trở lại mục tiêu ban đầu của việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Hoa Kỳ có thể chủ trương là nếu giúp Việt Nam cải thiện kinh tế thì xã hội cũng sẽ cải thiện về chính trị và tiến dần sang chế độ dân chủ, ông nhận xét như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng đấy là một nhầm lẫn lớn từ cả hai phía.

- Hoa Kỳ có thể cả tin vào sức mạnh kinh tế thị trường sẽ dẫn tới chuyển hóa chính trị là điều thật ra không tất nhiên, vì các chế độ độc tài vẫn có thể áp dụng quy luật thị trường có chọn lọc để củng cố chế độ, là điều đã thấy tại Trung Quốc và sẽ thấy tại Cuba. Ngược lại, Hà Nội cho rằng Mỹ có dụng ý chính trị để chuyển hóa chế độ theo kiểu diễn biến hòa bình. Thật ra Hoa Kỳ có nêu khuyến cáo hoặc thậm chí gây áp lực, nhưng chuyển hóa hay không thì vẫn là quyết định của Việt Nam. Hoa Kỳ đã từng có quan hệ khá chặt chẽ với nhiều chế độ độc tài, thêm một chế độ Hà Nội nữa thì cũng chẳng làm nước Mỹ thay đổi chính sách. Tổng kết lại thì có muốn dân chủ hay không là chuyện của dân Việt Nam, không là một yêu cầu tiên quyết của nước Mỹ.

Nguyên Lam: Trong trường hợp đó, ông giải thích thế nào về sức ép của Hoa Kỳ trong hiệp ước xây dựng đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta nên xét cho kỹ, rằng sức ép đó có lợi cho Mỹ hay cho Việt Nam? Nếu muốn gia nhập hệ thống TPP này mà Việt Nam cải thiện quy chế lao động, có công đoàn tự do và tôn trọng nền tảng luật lệ thì điều ấy có lợi cho người Việt Nam hơn là cho nước Mỹ.

- Vả lại, trong chuyến thăm viếng Hoa Kỳ vừa qua, Chính quyền Obama đã giúp phái đoàn của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vận động một số nhân vật của Quốc hội để được chấp nhận vào hiệp ước TPP. Rồi Phòng Thương Mại Hoa Kỳ còn tổ chức dạ tiệc khoản đãi ông Trọng để phía Hà Nội có cơ hội vận động chính giới, doanh giới và truyền thông Mỹ. Những sự giúp đỡ ấy không nhắm vào việc thay đổi chế độ như Hà Nội vẫn lo sợ.

Nguyên Lam: Thưa ông, phải chăng Chính quyền Obama muốn qua hiệp ước TPP mà yểm trợ an ninh của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc như nhiều giới chức ngoại giao Mỹ đã nói ra?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng đấy lại là một lầm lẫn khác. Hoa Kỳ đang làm ăn buôn bán với Trung Quốc có hơn một tỷ 350 triệu dân thì chẳng có lý do gì mà huy động 90 triệu người Việt vào chiến tuyến chống Tầu. An ninh của nước Việt, hay nhân quyền và dân chủ của người Việt phải xuất phát từ Việt Nam, chứ không thể lệ thuộc vào chính sách thất thường của nước Mỹ.

- Nhưng Hà Nội cũng chẳng thể quên rằng Quốc hội và dư luận Hoa Kỳ vẫn tiếp tục lên án nạn vi phạm nhân quyền và đàn áp dân chủ của Hà Nội vì dân Mỹ không muốn dân Việt mãi là nạn nhân của một chế độ tồi tệ. Hoa Kỳ là nơi mà “quyền lực mềm” có sức mạnh thực tế, nó không xuất phát từ chính sách quân sự hay kinh tế của nhà nước mà một cách tự phát từ xã hội dân sự, trong đó có cả cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Quyền lực đó có thể giúp người ta thấy ra mối nguy của Bắc Kinh và lối ăn nói nước đôi của Hà Nội. Trong 20 năm qua, chính là những nỗ lực tự phát của xã hội Mỹ lẫn các tổ chức thiện nguyện về giáo dục, y tế và văn hóa đã làm xã hội Việt Nam thay đổi nhiều hơn là người ta thường nghĩ.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.