Tiếp theo là hậu quả đối với an ninh khu vực. VNCS nhược tiểu đi từ cực đoan này đến cực đoan khác. Bạn thành thù. Thù thành bạn.
Người đồng chí phương Bắc, từng “Núi liền núi, sông liền sông”, nay là một nỗi lo lớn cho Hà nội. Vấn đề biên giới phía bắc, chủ quyền các hải đảo, mậu dịch tương tiêu giữa biên giới chưa có giải pháp mà nóng lạnh tùy giai đoạn, tùy khuynh hướng của vài nhân vật cầm đầu trong Bộ Chính trị. Mối lo phòng thủ đồng chí phương bắc bộc lộ trong bốn công tác lớn, trong và ngoài nước. Một, khuếch trương đường 9 Nam Lào, phòng trường hợp Hải quân Trung Quốc cắt đôi Việt Nam, cánh quân phía Nam có đường cứu viện hay ngược lại. Hai, xây xa lộ Trường Sơn, be bờ phía tây, đất liền cho VNCS. Ba là tung 1,000 quân tiền thám, xây tiền đồn ngay trên đất Lào. Hậu cần tiền phương cũng phải sẵn: viện trợ một quân y viện cho Lào trên danh nghĩa. Trên biển Đông, qua dàn xếp của Mỹ trong chuyến đi Ấn Độ của Tổng Thống Clinton và cuộc viếng thăm “hợp tác quân sự cấp thấp” của Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Cohen, VNCS và Ấn giúp nhau tập trận trên biển và huấn luyện chiến đấu trên rừng. Ngoại giao, hợp tác chằng chéo như thế là do một nguyên do đơn giản của Mỹ. Trung Quốc không thể cầm đầu lại các quốc gia còn Cộng sản thay cho Liên xô đã chết. Mâu thuẫn VNCS và Trung Quốc lệ thuộc vào quyền lợi Mỹ dù quốc gia này đều tỏ ra là ban phát cho cả hai. Tổng Thống Clinton đi Việt Nam vì quyền lợi Mỹ đó.
Hiện nay, CSVN nỗ lực cầu cạnh để được là một đồng minh của Mỹ, để có lá chắn che chở ngoài nước và để giải quyết bài toán kinh tế đang nguy, hy vọng tạo thế chính thống cầm quyền sau khi khẩu hiệu giành độc lập, tiến lên xã hội chủ nghĩa đã trở thành lố bịch trước nhân dân và thế giới.
Chắc chắn trước khi đi với kẻ cựu thù Mỹ, người Cộng sản đã tra cứu nhiều kinh nghiệm của VNCH và Mỹ. Câu nói “làm kẻ thù của Mỹ rất dễ, làm bạn với Mỹ rất khó,” hy vọng là đề tài học tập cho Bộ Chính trị, để nhân dân Việt Nam đừng làm con chốt thí lần thứ hai trong thời hậu Chiến tranh lạnh mà đối thủ là một nước có một tỷ hai người, chỉ cần đấu khẩu văng nước miếng cũng đủ ngập lụt Bắc Bộ Phủ, Hà Nội.
Đối với Trung Quốc, cuộc chiến với Việt Nam hiện nhằm nặng về phá hoại kinh tế. Nuôi 1,000 quân ở Lào, mở đường chiến lược Bắc Nam, Đông Tây, thất thu thuế má ở biên giới, mất mát hải đảo, nguồn lợi dầu mỏ, phân chim, đánh cá; tất cả cũng khá đủ để VNCS mất nhiều máu rồi. Đó là một thứ chiến tranh phá hoại, gây thiệt hại không thua gì chiến tranh súng đạn.
Nếu thương ước hại cho Đảng, lợi cho dân, và tạo nhiều phiêu lưu ngoại giao mà CSVN phải làm là vì không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo Mỹ trong kinh tế, chính trị và ngoại giao. Đi với Mỹ hay là chết trước mắt vì Trung Quốc, vì tình hình trong nước, lụn bại kinh tế, phân hóa chính trị.
Nhưng không chết trước mắt cũng phải chết gần đây, chết vì lý do đi với Mỹ. Chết gần đây bởi diễn biến hòa bình, bởi sự kết hợp các lực lượng phi cộng sản trong và ngoài nước đấu tranh dân chủ, tự do.
Với thương ước, giao thương, giao lưu phải có. CSVN không có cách nào đóng cửa rút cầu trước sự xâm nhập, thâm nhập vào đất đai, tâm hồn người, trong lẫn ngoài Đảng, nhất là giới trẻ. Nhờ Mỹ cái gì thì còn bàn bạc, hai bên đều có lợi; chớ nhờ tới việc chống lại những người dân đòi dân chủ, thì không một Đại sứ, Tổng Thống nào dám động đậy. Trái lại, Quốc hội Mỹ sẵn sàng khuyến cáo, viếng thăm, vận động cho tự do dân chủ như đã từng làm gần đây.
Thời hạn một năm gia hạn tối huệ quốc là công cụ tốt cho Quốc hội Mỹ can thiệp cho nhân quyền, tự do, dân chủ tại VNCS. Thương ước sẽ bắt một nhịp cầu liên hiệp các lực lượng đấu tranh trong và ngoài nước. Cách đánh từ hải ngoại vào trong không hiệu quả nhiều dù hao hơi, tổn tiếng, hao tài tản mạn (ít thôi). Cách đánh trong lòng địch trước sự quan sát quốc tế kết quả cao hơn. Cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo của Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo êm dịu mà tổn thương cho CSVN không ít. Hiệu quả nhất là tạo sự dạn dĩ, khí thế cho quần chúng. Cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ chỉ có kết quả mong muốn khi hai mặt giáp công, hợp đồng tác chiến giữa trong và ngoài.
Chính người trong nước mới là người quyết định. Người hải ngoại là một cánh quân. Người ở xa không thể suy nghĩ, quyết định thay cho tư lệnh chiến trường.
Nhưng lực lượng trong nước là quần chúng. Chánh yếu là thành phần hữu thần. Nói rõ hơn là số tín hữu, là khối quần chúng có tổ chức, có lãnh đạo nhứt hiện nay, sau khi các đảng phái bị diệt gần hết.
Thứ đến là số đảng viên đã bỏ đảng về thực chất, nhưng vì liêm sĩ, vì sợ bị thanh toán còn ẩn nhẫn kéo kiếp đời bất mãn với mình, với đảng CSVN đang bị lớp quý tộc đỏ lấy làm cái thang danh lợi. Chính cái lớp đảng viên này nội kích phá tan thành trì vô sản Liên xô. Lớp đảng viên này không ít ở Việt Nam.
Lực lượng hải ngoại xuất phát từ hai nguồn: tỵ nạn CSVN từ 1975 trở đi, và thành phần rời bỏ CSVN, ở lại Đông Âu và Nga từ khi Đế quốc Liên xô, Đông Âu tan vỡ. Sự cảm thông giữa hai nguồn này cần tạo dựng. Cũng cần tạo dựng sự cảm thông với các đảng viên đã bỏ đảng như Bùi Tín, Dương Thu Hương, Trần Độ, Nguyễn Hộ, v.v.., và rất nhiều đảng viên giác ngộ, tiến bộ thầm lặng. Chuyện khó, chớ không phải dễ, vì bao nhiêu quá khứ đau thương mà người quốc gia đã chịu và vô vàn trí trá mà dảng CSVN đã làm. Quyền lợi Tổ quốc, Hạnh phúc cua nhân dân sẽ là chất keo. Tự do, dân chủ là lề lối xích lại gần nhau: tôn trọng cái khác nhau trong niềm tương kính.
Ngay đối với đảng CSVN đang cầm quyền, người đấu tranh cho tự do dân chủ cũng không có thái độ trả thù, trả oán nếu họ trở về cùng sống với nhân dân. Chính nỗi âu lo, sợ hãi bị trả thù do tuyên truyền, do điều kiện hóa bởi giai cấp đấu tranh của Cộng sản đã tạo ra tâm lý leo lưng cọp rồi không dám xuống; tâm lý đó kéo dài cuộc đấu tranh một cách vô bổ. Lịch sử dân Việt đại xá nhiều, trả thù tập thể rất ít.
Người Việt - dù quốc cộng hay chánh kiến chưa rõ ràng - không ai muốn Tổ quốc mình bị siêu cường lật xấp, lật ngửa, ngậm nỗi tủi buồn nhược tiểu. Muốn thế, phải có nội lực. Nội lực chánh của quốc gia là nhân dân. Nhân dân mạnh là có ý chí cùng chung sống, cùng bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Đó chính là chỗ mà Đảng CSVN có thể trở về, một khi chịu sám hối, thành khẩn hòa giải, lắng nghe mọi tiếng nói, tôn trọng tự do và dân chủ - và đẩy hoàn toàn một thời máu lửa vào quá khứ.