Hôm nay,  

Thụy Điển Nhìn Lại 40 Năm Chiến Tranh VN

30/04/201519:41:00(Xem: 11719)

"40 Năm sau chiến tranh Việt Nam, Agheta Pleijel đọc sách Nhã Ca về Huế: Tại sao cuộc thảm sát tại Huế bị thế giới quên lãng?" là tựa đề bài viết của Agneta Pleijel, nhà văn nữ Thụy Điển hàng đầu, nguyên chủ tịch Văn Bút và hiện là thành viên Hàn Lâm Viện.

Agneta_Mourning Headband for HueBáo Dagens Nyheter, một trong hai tờ nhật báo lớn nhất của Thụy Điển, số ra ngày 27 tháng Tư 2015, vừa đăng một bài của tác giả Agneta Pleijel nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam, qua tác phẩm “Mourning Headband for Huế” do Olga Dror dịch từ nguyên tác “Giải Khăn Sơ Cho Huế” của Nhã Ca. Ảnh lớn trong bài là một phụ nữ Huế bên thi thể thân nhân tìm thấy từ một hầm chôn người do cộng sản gây ra trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Ảnh nhỏ phía trái là tác giả Nhã Ca và bìa sách.


Ngày 30 tháng 4 Sài gòn thất thủ vào tay quân Bắc Việt và cuộc nội chiến kéo dài 20 năm chấm dứt. Agneta Pleijel hồi tưởng những biến động thời cuộc trong thế hệ bà vào lúc bà đọc cuốn sách về cuộc thảm sát bị quên lãng tại Huế.
Ai còn nhớ cuộc thảm sát tại Huế ? Thành phố đã một thời là kinh đô của triều Nguyễn. Thành phố cổ kính này nằm ngay phía nam vĩ tuyến 17, nơi nước Việt nam bị chia làm hai, sau 1954, Nam và Bắc. Ngay sau đó, sự ảnh hưởng của Mỹ trong cuộc chiến Việt nam ngày càng gia tăng.
Thế hệ của tôi, những người từng xuống đường biểu tình trong những năm 60 , 70 tại Thụy Điển, đã nhìn cuộc chiến Việt nam như một cuộc xâm lược của một đại cường quốc trên một lãnh thổ nhỏ bé của Á châu. Sài gòn thất thủ 30 tháng Tư năm 1975. Mỹ bỏ đi. Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản và Sài gòn đổi tên thành phố Hồ chí Minh. Cuộc chiến Việt nam chấm dứt.
Một cơn sóng người tị nạn ít nhất cả triệu người đã rời bỏ Việt nam. Nhưng Huế? Tôi hỏi bạn bè chung quanh và chẳng ai nhớ tới. Phải, vài người ráng nhớ lại. ”Cuộc thảm sát tại Huế? Cái gì thế nhỉ ? Nó như thế nào?” Trên thực tế cuộc chiến đẫm máu nhất trong chiến tranh Việt Nam đã xẩy ra tại đó, khi mà quân đội Bắc Việt vào những ngày đầu năm 1968 bắt đầu chiến dịch (gọi là cuộc tổng công kích) Tết Mậu Thân.
Rất quan trọng khi có thể chiếm giữ được cố đô Huế. Trận chiến kéo dài gần một tháng và là một cuộc thảm sát tàn khốc nhất trong cuộc nội chiến Việt nam. Nhưng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trận chiến tại Huế đã bị công luận thế giới vùi quên vào lịch sử.
Những ngày trước cuộc Tổng tấn công Huế, bắt đầu ngày 30 tháng 1, 1968, nhà thơ trẻ Nhã Ca, đang sống tại Sài gòn, nơi mà nền văn thơ thời đó đang nở rộ, đã về Huế để dự tang lễ của cha mình, một khuôn mặt lãnh đạo của một trong những cộng đồng Phật Giáo Huế.
Bà đã bị kẹt lại giữa những cuộc đụng độ của các lực lượng quân đội. Một bên là đội quân hùng hậu của Bắc Việt được hỗ trợ bởi FNL (Mặt trận Giải Phóng Miền Nam ), một bên là quân đội Việt Nam Cộng Hòa, được tiếp viện bởi quân đội và máy bay oanh tạc của Mỹ. Nhã Ca cũng như dân chúng Huế đã chui rúc như chuột trong những cơn bom đạn tưởng như không bao giờ dứt. Cuối cùng thì bà cũng đã may mắn thoát được về Sài gòn với chồng và hai con.
Với một bút ký ghi lại những ngày chạy loạn tại Huế, Bà đã mô tả lại sự kiện như một nhân chứng. Mãi đến mùa thu năm rồi cuốn sách mới được dịch sang anh ngữ. Tôi đã đọc đi đọc lại, và càng đọc càng rúng động: “Mourning headband for Hue” (Indiana University Press).
Nhã Ca sinh năm 1939, tên thật là Trần thị Thu Vân, là một tác giả tên tuổi của Việt nam với một số lượng tác phẩm lớn. Bút hiệu của bà, Nhã Ca có nghĩa là bài ca thanh nhã, được lấy theo tên gọi “Bài Ca Của Những Bài Ca” của Salomon một Kinh Cựïu Ước. Hiện nay bà đang sống tại California.
Cuốn sách của bà là một sự mô tả kinh hoàng về cảnh chạy bom chạy đạn của dân Huế từ nhà này sang nhà khác, giữa những ngôi nhà thờ và những ngôi chùa, nằm giữa những mái che tạm thời trong những vườn cây hay dưới những ngôi nhà, với cái đói đi liền bên cạnh. Xác người đầy dẫy trên đường phố. Khắp nơi trong nhà ngoài đường, người chết và người bị thương nằm lăn lóc, ngập trong máu. Một số người bị khủng hoảng vì quá kinh hãi. Hình ảnh gây ấn tượng mạnh: một nhóm các thầy chùa và các cha xứ cố gắng dẫn một đàn trẻ em bị bỏ rơi, trở thành một đoàn người tay cầm cờ trắng ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào lang thang trong thành phố đầy lửa đạn.
Lúc đầu thì quân Bắc Việt chiếm ưu thế. Những cậu lính trẻ miền Bắc Việt lục soát trong từng căn nhà để săn đuổi những người mà họ tình nghi là tay sai. Cư dân địa phương bị buộc phải gia nhập. Một kẻ nghiện rượu, một người thợ làm bún, một ông chủ tiệm trở thành những kẻ chỉ điểm. Không ai còn dám tin ai, vì những mối thù hằn cá nhân được lôi ra. Mưa bom đạn không ngừng. Tiếng đại bác và bom chỉ ngưng trong chốc lát.
Lính Bắc Việt và các cán bộ của Mặt trận giải phóng miền nam (FNL) từ rừng núi kéo về chiếm giữ thành phố. Những người dân bị tình nghi là tay sai bị lính Bắc Việt bắt và áp giải vội vã đến những nơi hành quyết và bị bắn chết. Cán bộ Mặt Trận bắt những thanh niên nam nữ trẻ đến những lớp cải tạo hoặc đi khiêng súng đạn hay xác chết cho họ. Nhiều người trong bọn họ không bao giờ quay về. Thành Nội Huế bị lính Bắc Việt chiếm đóng, tù nhân bị trói vào vòng tường ngoài để lính Mỹ sẽ thả bom vào vì tưởng đó là kẻ thù.
Nhã Ca là một người quan sát tuyệt vời và miêu tả lại tất cả một cách sống động, với những hình ảnh rõ ràng của sự hèn nhát vì sợ hãi hay những hành động anh hùng không vị kỷ. Bằng cách kết hợp những kinh nghiệm riêng của chính mình với những mẩu chuyện nghe được từ nhiều người khác, Nhã Ca đã đưa ra một cái nhìn chung cho sự kiện đã kéo dài trong gần một tháng. Bản thân bà lớn lên trong một gia đình Phật giáo, không có cảm tình với cộng sản, nhưng cũng không phải là đồng ý với Mỹ. Với tình trạng lúc đó thì lính bắc việt và mặt trận giải phóng là mối đe dọa lớn nhất của gia đình bà.


Giới truyền thông quốc tế thời chiến tranh Việt Nam, người ta đã đơn giản hóa hình ảnh của cuộc chiến, hầu như chỉ là giữa hai bên, Mỹ và Việt nam cộng sản. Trong tác phẩm của Nhã Ca, một loạt những hình ảnh đa dạng hơn xuất hiện. Đại đa số dân chúng miền Nam không muốn phải sống dưới chế độ Cộng sản, nhưng cũng không hề muốn bị Mỹ kiểm soát. Họ chỉ hy vọng được sống trong một nước Việt nam dân chủ, là điều mà họ đã bị từ chối.
Quân Bắc Việt đã bị buộc phải rút lui tại Huế nhưng bẩy năm sau đó họ chiến thắng tại Sài gòn. Ở Huế sau đó người ta đã đào lên được hàng ngàn thi thể trong những hầm chôn người do phía “quân cách mạng” bỏ lại. Sau khi quân Bắc Việt chiếm miền Nam năm 1975 sách của Nhã Ca bị đốt và cấm. Bản thân bà đã bị cầm tù trên một năm, chồng bà, cũng là một thi sĩ, đã bị giam cầm hơn 12 năm trong tù. Gia đình lúc đó có 7 người con đã bị đẩy ra đường. Và sau đó, như một phép lạ, gia đình bà liên lạc được với Hội Văn Bút Thụy điển. Chủ tịch Văn Bút lúc đó, Thomas Von Vegesack, đồng thời là Phó Chủ tịch của Uỷ Ban Văn Bút Quốc Tế bảo vệ các “Nhà Văn Bị Cầm Tù” (“PEN International Writers in Prison Committee) hoạt động trên toàn thế giới. Cuộc vận động của Thomas được sự hỗ trợ đặc biệt của Thủ Tướng Thụy Điển Olof Palme và Ingvar Carlsson (Thủ Tướng kế vị sau khi Olof Palme bị ám sát) trong việc can thiệp cho gia đình nhà văn Việt Nam này. Sau khi người con trai trưởng của họ vượt biên và đến được Thụy Điển, mức độ can thiệp gia tăng, người chồng ra khỏi nhà tù và cả gia đình của Nhã Ca đã đến được Thụy Điển. Là người kế tiếp Thomas trong làm Chủ tịch Văn Bút, tôi đã có dịp đón tiếp và thân quen với gia đình Nhã Ca, tác giả cuốn sách về Huế mãi đến hơn 40 năm sau tôi mới được đọc.

Tại sao cuộc thảm sát tại Huế – một trong những cuộc thảm sát kinh hoàng nhất trong cuộc chiến Việt nam- bị quên lãng? Dịch giả, Olga Dror, đã tăng thêm giá trị của cuốn sách nhờ bài công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm và diễn tiến cuộc tấn công tại Huế năm 1968. Bà cũng điểm lại từng quan điểm của những nhà nghiên cứu Mỹ và ký giả cùng các chính khách Hoa Kỳ và Bắc Việt có trách nhiệm vào lúc đó. Bà là người Nga gốc Do Thái, đã được nghe cha mẹ là những người sống sót trong lúc Leningrad bị bao vây vào thời thế chiến thứ hai kể chuyện, nên bà rất quan tâm đến những người dân trong thời chiến.

Tại Mỹ nhiều năm qua, người dân gần như bỏ lơ trận chiến tại Huế vì chỉ vài tuần sau đó tin tức thế giới đã ngập tràn với vụ Mỹ Lai, tiếp theo là những tin tức về việc lính Mỹ đã bắn chết dân làng một cách bừa bãi. 1969 cũng là năm mà truyền thông bận bịu với cái chết của Robert Kennedy và Martin Luther King, và vì Tổng Thống Mỹ Lyndon B Johnson trong cùng năm đó đã bối rối trước phong trào chống chiến tranh Việt nam tại Mỹ tới mức phải quyết định không tái tranh cử. Những người từng quan tâm tới cuộc chiến, như các sử gia và nhà báo đành chọn sự im lặng. Một số cho là cuộc thảm sát đó không phải lệnh ở trên đưa xuống. Với một số người khác, sự kiện đó xẩy ra vì lính Bắc việt tưởng họ là những người giải phóng miền nam, nhân dân miền nam sẽ đón chào họ. Nhưng sự tương phản đã xẩy ra.
Những phê bình của họ về cuốn sách của Nhã Ca (mà số đông đã đọc qua) thì họ miễn cưỡng chấp nhận hoặc ghét cay ghét đắng. Cũng có những người nhớ đến Huế với nỗi đau trong tim.
Tại Liên Xô, vụ thảm sát tại Huế trôi qua trong im lặng, ngoại trừ Aleksandr Solzjenitsyn, khi vẫn còn tại đó đã nói về cuộc thảm sát trên một tờ báo Na uy, với câu hỏi vì sao Tây Phương không quan tâm đến những việc làm phạm pháp của cộng sản. Bài viết của Olga Dror là một tài liệu nghiên cứu. Tội lỗi của ai không còn quan trọng. Một số các nhà văn Mỹ nhìn Huế như một cuộc tàn sát dã man của Bắc việt, trong khi một số chống chiến tranh cánh tả lại cho rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ.
Olga Dror đã cho thấy số phận của người dân thường được miêu tả thế nào, và sự không đáng tin cậy mà lịch sử đã nghiên cứu về họ (như Syrien, Yemen, người dân trong vùng IS chiếm đóng…) “Mourning headband for Hue” là một bài ca truy điệu cho một thành phố bị tan nát và cho cả dân tộc Việt nam, con cờ trong cuộc chiến tranh lạnh để đo lường quyền lực của các đại cường quốc. Đó là một cuốn sách không dễ đọc nhưng bạn đọc sẽ được thưởng thức lòng nhân đạo của Nhã Ca và cái chất thi vị của dòng văn bà. Bên cạnh đó sự thành thật của bà.
Bà kể về những chuyện xẩy ra từng ngày một. Một số người Việt đòi hỏi bà phải quy tội mạnh mẽ hơn cho những kẻ tham gia cuộc chiến. Nhưng đọc như vậy là đọc sai (nhưng sự đòi hỏi như vậy là sai). Cuốn sách là một bài ca truy điệu cho một dân tộc và một sự thất bại. Chúng ta hãy tưởng nhớ Huế.
Hiện nay Nhã ca và chồng Trần Dạ Từ đang điều hành một tờ nhật báo Việt ngữ tại Mỹ. Ở đó câu chuyện về những số phận của những người Việt tị nạn vẫn đang được kể lại. Tháng Tư năm nay, nhân dịp tưởng niệm 40 năm cuộc chiến Việt Nam, cùng với việc sách “Mourning Headband for Hue” được xuất bản và giới thiệu, đại hội điện ảnh Việt Film Fest tại California đã tổ chức chiếu bộ phim “Đất khổ”, được dàn dựng theo sách của Nhã Ca và do chính bà viết đối thoại. (Xin xem phần tường thuật trên trang Việt Báo Weekend.)
Agneta Pleijel



Ý kiến bạn đọc
08/07/201515:04:35
Khách
Cái bọn Cộng Sãn Việt Nam đang bẽ cong sự thật về Vụ Thãm Sát Tết Mậu Thân 1968, sự kiện lịch sữ đã chứng minh, bọn Cộng Sãn Việt Nam không thể đánh lừa thế giới , chúng tưỡng rằng bịt mồm các nhân chứng ngay cả những tên cán bộ tham gia vào Vụ Thãm Sát Tết Mậu Thân 1968, bằng nhiều cách: hăm dọa, thủ tiêu.....là yên tâm mà bẽ cong , che lấp Sự Thật về Vụ Thãm Sát Tết Mậu Thân 1968. Hãy đợi đấy Lịch Sữ sẽ ... Xữ Tội bọn Cộng Sã Việt Nam
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Doanh nhân Donald Trump đã khởi xướng trào lưu dân tuý và hai lần thắng cử tổng thống. Ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trên chính trường để vận động tranh cử năm 2016, Trump không có tham vọng thu tóm quyền lãnh đạo Đảng Cộng hoà trong ý tưởng thù địch, mặc dù thể hiện nhiều quan điểm chống đối gay gắt. Ngược lại, ngày nay, "chủ thuyết Trump" chế ngự toàn diện mọi sinh hoạt của đất nước. Thực ra, khi nhìn lại hoạt động của Đảng trong thời hiện đại, đây là kết quả của một tiến trình dài nhằm tái định hình chiến lược bảo thủ mà Đảng đã đề ra vào những năm 1960.
“Tôi đã cố gắng rất nhiều để trở thành một di dân tốt của đất nước Hoa Kỳ. Tôi phục vụ trong quân đội. Tôi học cao học. Tôi làm việc cho chính phủ liên bang. Tôi luôn cố gắng làm tốt công việc của mình trong 15 năm qua. Nay, tôi, chúng tôi, đang hoang mang về những chính sách không rõ ràng, không biết từ ai. Thậm chí, sếp lớn nhất của cơ quan chúng tôi phải tổ chức cuộc họp để trấn an nhân viên về những email của OPM gửi ra gần đây kêu gọi chúng tôi nên tự động nghỉ việc để nhận tám tháng lương. Họ không khuyến khích chúng tôi trả lời những email như thế. Trên một diễn đàn của Fed, mọi người từ lo lắng, sợ hãi, cho đến bây giờ thì tất cả đều đồng ý sẽ chiến đấu đến cùng.”
Không ra tranh cử. Không được xác nhận chính thức. Cũng chẳng cầm một xu tiền lương từ chính phủ. Elon Musk, người giàu nhất thế giới, đã tuyên chiến với chính phủ liên bang Hoa Kỳ và, chỉ trong vài ngày, đã bắt đầu ra tay cắt giảm quy mô và ảnh hưởng của bộ máy chính quyền, đồng thời còn nắm được một số bí mật nhạy cảm nhất. Musk sử dụng mạng xã hội quyền lực của mình để định hướng dư luận, và không ngần ngại dọa dẫm rằng sẽ dùng khối tài sản khổng lồ của mình để hậu thuẫn cho đối thủ chính trị của bất kỳ ai dám chống đối.
Tổng Bí thư Tô Lâm hứa “Việt Nam sẽ học hỏi tối đa kinh nghiệm phát triển của Trung Quốc, đặc biệt là sự đổi mới lý luận và thực tiễn của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới".
...Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, Mỹ khởi xướng Kế Hoạch Marshall vào năm 1948 để giúp tái thiết kinh tế Châu Âu và ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Khi nhận thấy cần có một cơ quan phát triển phối hợp, Tổng thống John F. Kennedy đã ký lệnh hành pháp 10973 Foreign Assistance Act vào ngày 4/9/1961, và ký thành luật thành lập Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) ngày 3/11, tập trung vào phát triển kinh tế và xã hội trong thời gian dài, thay vì chỉ viện trợ quân sự hoặc khẩn cấp. Cơ quan này được tạo ra để hợp nhất các nỗ lực viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ và thúc đẩy phát triển toàn cầu như một phần của chính sách đối ngoại quốc gia. Thời Chiến Tranh Lạnh, USAID đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bằng cách cung cấp viện trợ cho các nước ở Châu Phi, Mỹ Latinh và Châu Á. USAID là nguồn là viện trợ chính cho các chương trình phát triển tập trung vào nông nghiệp, y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Cuộc Cách Mạng Xanh (Green Revolutio
Với mức áp thuế 10% lên hàng hóa Trung Quốc, liệu đây là những "đòn ngoại giao" như giới ủng hộ Donald Trump luôn bào chữa hay là sự thăm dò? Còn hiện nay, với các phát biểu cầu cạnh, một mức thuế "nhẹ nhàng" như vậy so với hai láng giềng đồng minh lâu đời Mexico và Canada, con đường "đánh Tàu" của Donald Trump trong nhiệm kỳ hai xem ra đã không như người Việt ủng hộ ông kỳ vọng.
Khi Sài Gòn thất thủ, cha của Bình Lý hòa cùng dòng người đi vào “đêm chôn dầu vượt biển.” để lại quê nhà người vợ và hai đứa con trai còn nhỏ. Sau gần 10 năm, cha và mẹ của anh đoàn tụ ở nước Mỹ. Bình chào đời trên xứ sở tự do, mang trên mình căn cứ người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai. Đúng 50 năm của biến cố 30 Tháng Tư (1975 – 2025), chính anh và những người bạn trẻ khác trong nhóm Viet Place Collective, đã tranh đấu suốt hai năm để thuyết phục giới chức vùng DMV chuẩn thuận cho tên đường Saigon Blvd – Đại Lộ Sài Gòn hiện diện trên một đoạn đường Wilson Blvd thuộc Falls Church.
Mới đây một người bạn online gởi đến một video clip và bản chụp mấy trang trong cuốn Kỷ niệm sân khấu của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hỏi ý kiến tôi về cách ông này kiến giải thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước”. Trong clip -- cắt từ một sản phẩm Paris by Night -- ông Ngạn cho biết trong chương trình trước MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên hỏi ông ý nghĩa của thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước” và lúc đó ông “đoán” ra hai điều: về vần, từ “gái” liền vần với “mười hai” và, về nghĩa, “số 12 trùng với 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.”
Ngay sau khi nhậm chức, tân Tổng thống Trump đã ký khoảng 100 sắc lệnh hành pháp để giải quyết nhiều vần đề cấp bách cho đất nước. Nhìn chung trong toàn cảnh, có nhiều nhận định tỏ ra dè dặt hơn khi cho rằng, một số sắc lệnh này có hiệu lực pháp lý tức thời, một số khác có lẽ chỉ là một màn trình diễn làm thoả lòng mong đợi của đa số cử tri và một số khác còn cần nhiều thời gian hơn nữa để cho các toà án tái thẩm nội dung. Tại sao các giải pháp này không hữu hiệu như Trump tuyên hứa với toàn dân? Sau đây là ba trường hợp điển hình để biện minh tại sao một kỷ nguyên hoàng kim chưa được khởi đầu...
Viet Bao Podcasts
Tạp Chí Truyền Thanh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.