Hôm nay,  

Úc Và Việt Nam Hình Thành Quan Hệ Đối Tác Chiến Lược

21/03/201500:00:00(Xem: 5333)
Tác giả: Carlyle A. Thayer

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng sẽ kết thúc chuyến viếng thăm Úc chính thức theo lời mời của Thủ tướng Tony Abbott vào buổi chiều hôm nay.

Theo tuyên bố chung chính thức được ban hành vào sáng nay sau cuộc thảo luận, hai nhà lãnh đạo đã chứng kiến việc ký kết Tuyên bố Tăng cường Quan hệ Đối tác Toàn diện Úc-Việt và đồng ý thiết lập Đối tác Chiến lược trong tương lai.

Năm 2009, Thủ tướng Úc Kevin Rudd đã bỏ qua quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Hai bên sau đó đã đồng ý về một quan hệ đối tác toàn diện và một năm sau đó thông qua Kế hoạch Hành động bốn năm (2010-13) để thúc đẩy mối quan hệ đối tác mới này.

Theo bản dự thảo chính thức của “Tuyên bố về Tăng cường Quan hệ Đối tác Toàn diện Úc-Việt”, “Đối tác Toàn diện Tăng cường… phản ánh sự năng động hiện tại của khu vực và mối quan hệ song phương trưởng thành hơn. Kế hoạch Hành động thứ hai sẽ đưa ra các lãnh vực hợp tác ưu tiên mới và quan trọng”.

Tuyên bố về Tăng cường Quan hệ Đối tác Toàn diện được chia làm năm phần ngoài lời mở đầu. Lời mở đầu tuyên bố: “Úc và Việt Nam có lợi ích chung trong vấn đề an ninh, ổn định khu vực và phát triển kinh tế. Cả hai nước đều được hưởng lợi từ một môi trường an ninh và ổn định khu vực, là môi trường tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc tế. Nhận thức của hai nước vẫn còn những thách thức đáng kể để đạt tới một khu vực ổn định, hòa bình và thịnh vượng”.

Lời mở đầu lưu ý rằng Úc và Việt Nam “sẽ tiếp tục làm việc trong quan hệ đối tác để định hình tương lai của khu vực và môi trường toàn cầu rộng lớn hơn” thông qua các tổ chức đa phương như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS).

Lời mở đầu cũng yêu cầu Úc và Việt Nam thực hiện Hiệp ước Thương mại Tự do giữa ASEAN-Úc-New Zealand và hoàn tất “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)”.

Phần 1 của tuyên bố chung là phần dài nhất trong bốn chương và chú trọng đặc biệt vào quan hệ song phương. Ví dụ, mục 1.2 yêu cầu hai bên gia tăng “trao đổi các chuyến thăm cấp cao và đối thoại cấp viên chức giữa Đảng Cộng sản, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam với các đảng phái, Chính phủ và Quốc hội Úc”.

Mục 1.3 yêu cầu cả hai bên “tham gia vào các cuộc đối thoại và hợp tác quốc phòng và các vấn đề an ninh hàng hải và hàng không, an toàn trong khu vực, thực thi luật pháp và tội phạm xuyên quốc gia”.

Mục 1.4 đề cập vấn đề nhân quyền và cam kết tiếp tục hỗ trợ cho Đối thoại Úc-Việt về các Tổ chức Quốc tế và các Vấn đề Luật pháp, bao gồm Nhân quyền.

Mục 1.5 tới 1.9 đề cập sự liên hệ giữa người-với-người, cộng đồng người Việt ở Úc, hợp tác khoa học và công nghệ, hợp tác giáo dục, huấn luyện và pháp lý, theo thứ tự đó.

Mục 1.10 tới 1.12 xác định ba lãnh vực hợp tác mới: (1) tiêu chuẩn và an toàn thực phẩm, nghiên cứu kiểm dịch và nông nghiệp, (2) bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu, và (3) “tài chính, thông tin và truyền thông, tài nguyên thiên nhiên và môi trường và các vấn đề lãnh sự”.

Trong phần 2, hợp tác khu vực và quốc tế, Úc và Việt Nam cam kết sẽ cùng nhau làm việc để tạo dựng kiến trúc đa phương của khu vực Indo-Thái Bình Dương, bao gồm Hội nghị thượng đỉnh Đông Á “như một diễn đàn lãnh đạo để bàn thảo các vấn đề có chung lợi ích, bao gồm hợp tác an ninh, kinh tế và phát triển trong khu vực”.

Tuyên bố chung nói rằng hai nhà lãnh đạo chia sẻ quyết tâm tăng cường các nhiệm vụ chiến lược và an ninh của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

Mục 2.4 trực tiếp đề cập đến mối quan tâm an ninh chung về các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Cả hai bên đã đồng ý về “tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực và bảo đảm an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không, phù hợp với luật pháp quốc tế … không dựa vào sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực”. Điều này phản ánh mối quan tâm chính yếu của Việt Nam và vùng lợi ích chung giữa Hà Nội và Canberra.

Mục 2.4 cũng ghi nhận chính sách phổ quát của ASEAN về Biển Đông: “Cả hai nước đều kêu gọi tất cả các bên kiềm chế và tránh các hành động có thể làm gia tăng căng thẳng trong khu vực. Cả hai nước đều đồng ý về nhu cầu cấp thiết để hoàn tất Quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.

Tuyên bố chung lặp lại những tuyên bố chính sách này về Biển Đông.

Mục 2.6 yêu cầu Úc và Việt Nam thúc đẩy “sự phát triển bền vững ở tiểu vùng sông Mekong”.


Phần 3 “tăng trưởng kinh tế, phát triển thương mại và công nghiệp”, khuyến khích dành cho khu vực tư nhân một vai trò lớn hơn trong mười chín lãnh vực, cụ thể từ khai thác khoáng sản và năng lượng tới thiết bị điện tử và viễn thông. Hai bên cũng đồng ý trao đổi thông tin về các quy định nhập khẩu và xuất khẩu để giảm bớt sự kiểm soát trùng lặp không cần thiết.

Úc và Việt Nam cũng cùng ủng hộ việc mở rộng thương mại và đầu tư thông qua sự tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới, APEC, Hội nghị Á-Âu và Nhóm Cairns.

Tuyên bố chung thông báo rằng Bộ trưởng Thương mại và Đầu tư Úc sẽ dẫn đầu một phái đoàn thương mại đến Việt Nam vào cuối năm nay để thúc đẩy thương mại và đầu tư hơn nữa.

Phần 4 tập trung vào việc hỗ trợ phát triển, bao gồm sự cam kết của Úc sẽ hỗ trợ Việt Nam trong “mục tiêu đã được loan báo để trở thành một nước cơ bản nghiêng về công nghiệp hiện đại vào năm 2020″ bằng cách hỗ trợ Việt Nam “thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mình (2011-2020), bao gồm ba lĩnh vực đột phá trong việc thúc đẩy nguồn nhân lực và phát triển kỹ năng; hoàn thiện thể chế thị trường; và phát triển cơ sở hạ tầng”.

Mục 4.4 xác định một lãnh vực hợp tác mới – ngoại giao kinh tế. Cả hai bên đã đồng ý thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế “thông qua chia sẻ kinh nghiệm và các hoạt động xây dựng năng lực”.

Phần 5: Quốc phòng, Thực thi Pháp luật và các mối Liên hệ An ninh, bao gồm sáu đề mục. Mục 5.1 yêu cầu hai bên tiếp tục đối thoại và hợp tác về các vấn đề quốc phòng và an ninh, kể cả thông qua Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng Úc-Việt hàng năm, Đối thoại Chiến lược Úc-Việt, Đàm phán Hợp tác Quốc phòng Úc-Việt và Đối thoại Quốc phòng theo khuôn khổ 1.5 [là các cuộc đối thoại không chính thức giữa các quan chức quốc phòng và an ninh hai nước; khuôn khổ 1 là các cuộc đối thoại chính thức].

Mục 5.2 yêu cầu cả hai bên “thúc đẩy mở rộng và hợp tác hơn nữa … thông qua trao đổi nhân sự, huấn luyện sĩ quan, và các chuyến tàu thăm viếng … (và) trao đổi quan điểm về các vấn đề an ninh và khu vực có cùng quan tâm bằng cách duy trì một lịch trình tư vấn và thăm viếng thường xuyên với các cấp dân sự và quân sự”.

Theo mục 5.3 Úc và Việt Nam cam kết sẽ làm việc với nhau để thúc đẩy các mục tiêu an ninh quốc phòng chung, thông qua Hội nghị Mở rộng các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN, Diễn đàn Hàng hải Mở rộng và Diễn đàn Khu vực ASEAN.

Mục 5.4 yêu cầu hai bên cùng làm việc với nhau về “an ninh hàng hải và hàng không, gìn giữ hòa bình, chống khủng bố, lực lượng đặc biệt và các vấn đề di sản chiến tranh”.

Trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, một bản ghi nhớ về các vấn đề di sản chiến tranh và một bản ghi nhớ về hợp tác gìn giữ hòa bình đã được ký kết.

Mục 5.5 nói về sự hợp tác để giải quyết “các mối đe dọa đáng kể và ngày càng tăng của tội phạm xuyên quốc gia (nạn buôn người, buôn ma tuý, rửa tiền và tội phạm mạng)” thông qua việc tăng cường chia sẻ thông tin tình báo.

Mục 5.6 yêu cầu Úc và Việt Nam làm việc song phương và thông qua các diễn đàn quốc tế để giải quyết vấn đề “an ninh lương thực, quản lý tài nguyên thiên nhiên, và các nguy cơ bệnh tật, dịch bệnh và thiên tai”.

Theo Hiệp định Đối tác Toàn diện Úc-Việt năm 2009, quan hệ song phương đã trở nên sâu đậm và mở rộng hơn. Úc và Việt Nam chia sẻ một không gian chung nhất định về chính trị, ngoại giao, kinh tế, phát triển, lợi ích an ninh và quốc phòng và các quan ngại tại một thời điểm trong môi trường địa chiến lược thay đổi.

Chuyến viếng thăm Úc của Thủ tướng Dũng đưa tới một động lực mới cho hai nước để đồng ý về một Kế hoạch Hành động mới trong những năm tới. Quan hệ Đối tác Toàn diện Tăng cường này thể hiện sự khôn ngoan của chính sách lâu dài của Việt Nam về “đa phương và đa dạng hóa” các quan hệ đối ngoại và chủ động tìm kiếm sự hội nhập quốc tế. Quan hệ Đối tác Toàn diện Tăng cường cũng nhấn mạnh rằng Úc, là một cường quốc trung bình, là một nước đóng góp quý giá cho an ninh và ổn định khu vực, và tăng trưởng kinh tế, không chỉ trong khu vực Đông Nam Á, mà cả khu vực Indo-Thái Bình Dương.

Nguồn: Australia-Vietnam to Forge Strategic Partnership

http://www.viet-studies.info/kinhte/VN_Australia_Thayer.pdf

https://anhbasam.wordpress.com/2015/03/20/3615-uc-va-viet-nam-hinh-thanh-quan-he-doi-tac-chien-luoc/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.