Hôm nay,  
CTA_United Educators_Display_300x250_Vietnamese - Nguoi Viet

Học Giả, Dịch Giả Olgar Dror Viết Về Nhã Ca & ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ (Kỳ 9)

13/02/201518:58:00(Xem: 12002)

Nguyên tác Anh ngữ: Olga Dror
Bản dịch Việt ngữ: Huỳnh Kim Quang

image002Như toàn văn lịch sinh hoạt tại Berleley đã phổ biến, Thứ Tư 25 tháng Hai 2015, nhằm ngày mùng bảy Tết Ất Mùi, sách “Mourning Headband for Huế” --từ nguyên tác tiếng Việt “Giải Khăn Sô Cho Huế” của Nhã Ca -- chính thức thành đề tài thảo luận tại Đại Học Berkeley, với hai diễn giả chính là Nhã Ca, người viết, và Olga Dror, người dịch.
February 2015
Mourning Headband for Hue
Reading - Literary | February 25 | 4-6 p.m. | 180 Doe Library
Featured Speaker: Nha Ca, writer
Speaker: Olga Dror, Associate Professor of History, Texas A & M University
Sponsor: Center for Southeast Asia Studies
This book event will highlight the new English-language translation of prominent Vietnamese writer Nha Ca's memoir Giai khan so co Hue, which was first published in 1969 as an eyewitness chronicle of the suffering of Vietnamese civilians caught in the city of Hue during the 1968 Tet offensive.
This event will include remarks on the translation by Prof. Olga Dror, the book's translator [in English], and commentary about the book itself by Nha Ca [in Vietnamese, with English language translation provided]
Nha Ca was born in Hue, Vietnam in 1939, but moved to Saigon after her marriage where she established a literary career. After the fall of South Vietnam in 1975, Nha Ca was incarcerated by the new national government. She was allowed to emigrate to the West with her family in 1989 and now lives in southern California.
Olga Dror was born in the Soviet Union and received an M.A. in Oriental Studies from Leningrad State University in 1987. She emigrated to Israel in 1989, and later moved to the U.S. to study Vietnamese history at Cornell University. She received her Ph.D. from Cornell in 2003, and has been a member of Texas A&M's faculty since 2004. Event Contact: cseas@berkeley.edu, 510-642-3609; 322 Wheeler Hall. Berkeley CA 94720 :: 510.642.3467 UC Berkeley.
Tuy giỏi nhiều ngôn ngữ và từng trực tiếp dịch bút ký truyền giáo ở Việt Nam của Linh Mục Adriano di Santa Thecla từ tiếng La Tinh, hay bút ký chạy loạn Huế Mậu Thân của Nhã Ca từ Việt ngữ sang Anh ngữ, công việc chính của Olga Dror là nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam tại Texas A&M University. Đó là lý do trong ấn bản Mourning Headband for Hue, ngoài phần dịch thuật, Olga Dror còn có thêm “Translator’s Introduction”, (Giới Thiệu của Dịch Giả) bổ cứu công phu, phân tích tỉ mỉ các quan điểm về Chiến Tranh Việt Nam và trận chiến Huế. Sau đây là bản dịch bài viết công phu của bà về “Giải Khăn Sô cho Huế” và tác giả Nhã Ca.

image007Những Quan Điểm Cá Nhân từ phía Cộng Sản: Trường hợp Bùi Tín

Bùi Tín nhìn thấy nguyên do thứ ba trong hệ thống giáo dục Cộng Sản hiện hữu lúc bấy giờ, mà, theo quan điểm của ông, bắt rễ trong hận thù. “Giáo dục thù hận, cần trong thời chiến tranh, được gia tăng tới mức cực đoan, [và] những huấn thị được lan truyền rộng rãi rằng ‘những tay sai giết người,’ [và những kẻ khác] là những kẻ thù nguy hiểm nhất, nhất định không được để cho chúng trốn thoát.” Như Bùi Tín xác định, hệ thống giáo dục như thế đã tạo ra căn bản cho cuộc tàn sát thảm khốc.(79)
Như Huỳnh Tấn Phát, người được Trương Như Tảng nói đến, Bùi Tín cho thấy rằng không có lệnh hành hình được đưa ra trước. Dù cả Huỳnh Tấn Phát, như được Trương Như Tảng cho biết, và Bùi Tín đều phủ nhận sự có mặt của lệnh từ thẩm quyền cao nhất trước cuộc tấn công, họ lại có cách giải thích khác nhau về các vụ giết người -- người trước [Trương Như Tảng] cho rằng tính tự phát từ một người lính bình thường, trong khi người sau [Bùi Tín] thì cho rằng khả năng của mệnh lệnh như thế là từ một người không rõ vào thời điểm rút lui của lực lượng Cộng Sản. Cả hai đều không nói đến vấn đề những vụ giết người được thực hiện rất lâu trước khi [Cộng Sản] bắt đầu rút lui.
Bùi Tín kể rằng quá trình ra quyết định của chính quyền và Đảng Cộng Sản không bao giờ được công khai, nhưng ông cho rằng đảng và chính quyền đã không có nỗ lực đáng kể qua việc điều tra hay trừng phạt sau đó: “Các lãnh đạo của Đảng Cộng Sản có khuynh hướng xem ‘sự chệch hướng’ nhẹ như là, chẳng hạn, [đã xảy ra] trong thời Cải Cách Ruộng Đất và các chiến dịch chống tôn giáo” khi mà con người và các vấn đề “tất cả đều được xử lý đại khái.”(80)
Bùi Tín nêu tên 3 người bị “phê bình” đối với thảm kịch tại Huế. Đại Tướng Trần Văn Quang, tư lệnh kiêm chính ủy của khu vực nơi mà Huế nằm trong đó, bị phê bình nhưng vẫn tiếp tục binh nghiệp và vào năm 1981 được bổ nhiệm là thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và được thăng cấp thượng tướng vào năm 1984. Thiếu tướng Lê Chưởng, chính ủy của quân đội Việt Cộng của Mặt Trận, dựa trên sự phê bình đã được thuyên chuyển làm thứ trưởng Bộ Giáo Dục. Ông đã chết vào năm 1973 trong một tai nạn xe. Người thứ ba bị phê bình, theo Bùi Tín, là Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch quân sự bên tả ngạn Sông Hương. Theo Bùi Tín, Đại tá Lê Minh đã chết vì bệnh sau đó.(81) Bùi Tín không nói rõ thời gian Lê Minh chết, nhưng Lê Minh chắc chắn còn sống lâu sau Tết Mậu Thân. Hơn nữa, năm 1987 ông [Lê Minh] đã viết một bài cho số báo tưởng niệm, Huế, Xuân 68, được xuất bản trong dịp kỷ niệm 20 năm Tết Mậu Thân tại Huế vào năm 1988, 5 năm sau cuốn sách của Bùi Tín được xuất bản.

Trường hợp Lê Minh

Bài viết của Lê Minh trong báo Huế, Xuân 68, nổi bật với những bài viết được viết bởi các chính trị gia và những người tham dự vào các sự kiện. Một cách nào đó nó miêu tả sự chệch hướng đáng kể từ sự xử lý của chính quyền đối với thảm kịch. Lê Minh viết rằng những tàn ác là một phần không thể tránh được của chiến tranh. Ông ca ngợi hiệu xuất của lực lượng Cộng Sản tại Huế trong thời gian Tết Mậu Thân: “Cần nói rằng sau khi chúng tôi rút lên rừng, nếu có điều gì đó còn bám rễ sâu trong tâm trí của người dân Huế, thì trước hết, đó là việc nâng cao hình ảnh của ‘bộ đội bác Hồ [Hồ Chí Minh].’” Nhưng rồi ông đi lạc vào chủ đề các vụ giết người tại Huế: “Khi chúng tôi rút lui, kẻ thù đã phản công chúng tôi với sức mạnh ghê gớm.” Ông thừa nhận rằng có một số trường hợp cụ thể những người thuộc ngụy quân và ngụy quyền đã bị bắt và những người chống Cộng Sản. “Trong các tình thế này, một vài anh chị em của khối quân đội của chúng tôi (quân đội, du kích, tự vệ, vân vân) đã không thể tránh được những hành động nông cạn [tác giả viết chữ nghiêng] trong trường hợp này. Chúng tôi ở trong tình thế cực kỳ khó khăn mà chúng tôi không thể kiểm soát hết những hành động của từng tay súng và từng du kích…gồm cả một số chủ lực địa phương, trong những phản ứng của họ đối với các sự kiện.”


Thực tế, trọng điểm của ông vẫn còn hẹp – ông đã không đề cập đến nhiều nạn nhân, nhưng từ sự mô tả của ông chúng có vẻ chẳng quan trọng gì và hạn cục đối với các giới chức quân đội và chính quyền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông cho thấy một chừng mức nào đó của sự phạm tội được cho là do lực lượng Cộng Sản, không phân biệt họ là người bắc hay người nam. Thêm nữa, ông thực sự cho rằng trách nhiệm của chính ông đối với các hành động của lực lượng Cộng Sản như là người chỉ huy của những lực lượng đó. Ông kết luận bằng một câu còn ấn tượng hơn: “Nhiệm vụ hiện nay của cách mạng là đưa ra ánh sáng sự bất công gây đau khổ cho các gia đình và những trẻ em của những người đã chết trong hoàn cảnh đó khi pháp luật cách mạng không bao giờ cố tình đẩy họ vào chỗ chết.”(82)
Bài viết của ông có ý nghĩa đặc biệt bởi vì, không giống Trương Như Tảng và Bùi Tín, những người đã sống ngoài Việt Nam và sách của họ được xuất bản tại Hoa Kỳ sau bài viết của Lê Minh, được xuất bản trong Việt Nam. Thật khó tưởng tượng rằng nó là tác phẩm “giả tạo” và rằng nó đã không đi qua quá trình kiểm duyệt thường xuyên. Có thể bởi vì cuốn sách được xuất bản tại Huế, cách xa quyền lực trung ương tại Hà Hội, nên sự kiểm duyệt không khắt khe. So với một tuyển tập có tiêu đề tương tự, Mậu Thân 68, được xuất bản tại Hà Nội bởi Ban Tuyên Truyền và Giáo Dục Tư Tưởng Trung Ương cùng thời điểm và cùng nói về một biến cố, đánh giá cao sự thành công của Cộng Sản ở thời điểm đó và thậm chí không đề cập gì tới Huế.(83) Tuy nhiên, có vẻ như rằng với sự có mặt của sự kiện đổi mới vào năm 1986, tương tự với sự cải tổ của Sô Viết, quốc gia đã trải qua hàng loạt tác động mãnh liệt về kinh tế và tác động ít mãnh mẽ hơn nhưng vẫn là những thay đổi chính trị quan trọng. Sự thay đổi sau cho phép hay được mong đợi cho phép vào thời điểm đó một mức độ tự do ngôn luận lớn hơn trước đó. Tôi nghĩ rằng nếu bài viết của Lê Minh được chính quyền đồng ý, có lẽ nó là bước mở ra khả năng thảo luận nhiều hơn nữa. Giả thuyết của tôi được hậu thuẫn bởi sự kiện là bài viết của Lê Minh được đề cập bởi Nguyễn Văn Diệu, là cán bộ liên lạc nước ngoài của Đảng Cộng Sản, tới ký giả của báo the Washington Post là Keith Richburg, người đề cập nó trong bài viết của ông “Việt Nam Thừa Nhận ‘Sai Lầm’ tại Huế,” được xuất bản năm 1988.(84)
Trong khi tôi không rõ chính quyền Việt Nam đã có làm gì đối với điều mà Lê Minh nói tới như là “việc đưa ra ánh sáng sự bất công đau khổ,” sau khi xuất bản bài báo, sự xuất hiện tiếng nói của ông không chỉ xác định sự kiện các vụ giết người mà cũng cho thấy rằng trong số những người chiến đấu bên phía Cộng Sản, có người cảm thấy và/hay nói lên tội lỗi đối với thảm kịch tại Huế.

Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường

Mười năm sau bài viết của Lê Minh, vào năm 1997, một người khác đi xa hơn Lê Minh trong sự đánh giá của ông đối với những vụ giết người tại Huế: Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người dân Huế mà trong thời gian Tết là một trong những lãnh đạo của lực lượng Cộng Sản tại miền Nam. Ông được cho là có liên can trực tiếp đến các vụ giết người trong tác phẩm của Vennema và được cho là liên can gián tiếp trong “Giải Khăn Sô Cho Huế.”
Qua tác phẩm của ông chúng ta có thể thấy sự thay đổi quyết liệt trong suy xét của ông về thảm kịch Huế. Năm 1971 Hoàng Phủ Ngọc Tường viết cuốn sách “Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu: Biên Niên Sử.” Phú Văn Lâu là một tòa lầu cao trong Thành Nội Huế. Tựa đề cuốn sách cho thấy thời gian và nội dụng được mô tả trong đó -- khoảng thời gian Cộng Sản kiểm soát Thành khi lá cờ một sao của Cộng Sản tung bay trên đỉnh của tòa lầu Phu Văn Lâu. Ngày tháng ở cuối cuốn sách chỉ ra rằng nó được viết vào năm 1969; tuy nhiên, nó được Nhà Xuất Bản Giải Phóng ấn hành vào năm 1971. Trong khi chính quyền Bắc Việt và sau đó là chính quyền Việt Nam thống nhất cho rằng nhà xuất bản này ở miền Nam, sự thực thì nó ở tại Hà Nội.(85) Với nhà xuất bản tại miền Bắc được kiểm soát bởi chính quyền, thì bảo đảm để kết luận rằng chính quyền miền bắc biết rõ về cuốn sách này.
Không giống “Giải Khăn Sô Cho Huế,” không có gì trong cuốn sách trái ý muốn đường lối của đảng về các sự kiện tại Huế. Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường tập trung vào những người Mỹ chiến đấu (quân đội Nam Hàn cũng được nhắc đến nhiều lần), vào sự nhiệt tình của quần chúng Huế trong việc đón tiếp lực lượng Cộng Sản sau khi sống dưới chính quyền Mỹ Ngụy, và vào mối quan hệ tốt giữa dân chúng và lực lượng Cộng Sản. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mô tả một số người rời bỏ thành phố vào năm 1966 và trở lại với lực lượng Cộng Sản. Cuốn sách chấm dứt bằng lời ghi nồng nhiệt, mô tả tình cảnh như thế nào trước khi Cộng Sản bị đánh bại, một trong những tay súng Cộng Sản nói với mẹ ông ấy, “Đã hòa bình rồi, Bác Hồ sẽ vào thăm Miền Nam. Bác sẽ đến thăm mẹ và con.” (86) Cuốn sách không nói gì tới các chiến dịch tuyên truyền, những tòa án vô thẩm quyền và bất hợp pháp, các vụ tàn sát người vô số, hay những mồ chôn tập thể. Khi tôi đọc cuốn sách này, tôi không thể thoát khỏi cảm nghĩ rằng nó là một phản ứng thực sự với Giải Khăn Sô Cho Huế: Biên niên sử của Hoàng Phủ Ngọc Tường chống lại tác phẩm của Nhã Ca.
Vào đầu thập niên 1980s, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất dứt khoát trong quan điểm về các vụ tàn sát người tại Huế. Được Stanley Karnow phỏng vấn cho loạt phát sóng có chủ đề Việt Nam: Thiên Lịch Sử Truyền Hình, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng: “Người dân rất ghét những ai tra tấn họ trong quá khứ nên khi cách mạng đến Huế thì họ diệt trừ tận gốc những kẻ bạo ngược để thoát khỏi chúng cũng giống như chúng là những con rắn độc nếu để chúng sống thì sẽ phạm nhiều tội khác nữa.”(87)
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, nhà phê bình văn học và nhà báo Thụy Khuê, chủ trì các chương trình văn học và nghệ thuật cho Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI)(88) bằng tiếng Việt, đã phỏng vấn người đàn ông sáu mươi tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vào lúc này, Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một nhà viết sử nổi bật của Huế và tác giả của nhiều tác phẩm văn học. Trong cuộc phỏng vấn ông phản ánh cuộc phỏng vấn trước đó của ông với Karnow, về các sự kiện tại Huế, và về Giải Khăn Sô Cho Huế.
(còn tiếp)

Ghi Chú

(79) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(80) Sách đã dẫn trên, trang 186.
(81) Sách đã dẫn trên, trang 184-86.
(82) Lê Minh, “Huế, Xuân 68”, Huế, Xuân 68 (Thành Ủy Huế, 1988), trang 73-76.
(83) Mậu Thân 68 (Ban Tuyên Huấn Trung Ương, Hà Nội, 1988).
(84) Báo Washington Post, ngày 3 tháng 2 năm 1988, trang A8.
(85) Phỏng vấn vào mùa hè năm 2013 với Thái Thành Đức Phổ, một trong những giám đốc nhà xuất bản từ năm 1969 tới năm 1975 tại Hà Nội, cho nghiên cứu của tôi về một dự án khác. Sau chiến tranh, Thái Thành Đức Phổ được chuyển vào Sài Gòn/Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1975 và tiếp tục làm việc ở đó cho tới năm 2004.
(86) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu (Nhà xuất bản Giải Phóng, Hà Nội, 1971), trang 78.
(87) Stanley Karnow, phóng viên trưởng, “Tết 1968,” Vietnam: A Television History [Việt Nam: Một Thiên Lịch Sử Truyền Hình], PBS, WGBH Educational Foundation, Boston, 1983.
(88) Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp truyền thanh từ thủ đô Paris bằng nhiều ngoại ngữ, gồm tiếng Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.