Thềm Sơn Hà, sĩ quan hải quân khóa 17 trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang, vừa giới thiệu cuốn sách ông viết về trận hải chiến Hoàng Sa nhan đề “Sự thật Hải chiến Hoàng Sa 19 tháng 1 năm 1974” tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt hôm Chủ nhật 11 tháng 12, 2014. Thời điểm giới thiệu cuốn sách đúng lúc để đánh dấu kỷ niệm 41 năm tròn của trận hải chiến.
Cuốn sách được tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên thứ trưởng bộ Giáo Dục VNCH viết lời giới thiệu, và cũng chính ông đích thân giới thiệu trong buổi ra mắt cuốn sách.
Từ lúc cuộc chiến xẩy ra đã có nhiều bài viết và nhiều cuộc phỏng vấn các nhân vật liên hệ bởi các chương trình Việt ngữ của các đài nước ngoài. Người được phỏng vấn nhiều nhất là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người có trách nhiệm về trận đánh. Năm 2010 Ủy Ban Hoàng Sa do cựu Thiếu Tá Hải Quân Trần Trọng Ngà (Khóa 12 SQ/HQNT) làm Trưởng Ban cùng với 7 Ủy viên khác đều là cựu sĩ quan hải quân cho xuất bản cuốn Hải Chiến Hoàng Sa.
Cho đến năm 2010, cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là tài liệu đầy đủ và nghiêm túc nhất về trận hải chiến lịch sử này. Chỉ có một thiếu sót là không có những tài liệu còn bảo mật về phía Hoa Kỳ.
Cuốn sách của ông Thềm Sơn Hà bổ túc sự thiếu sót này. Trong Lời Mở Đầu của cuốn sách ông Thềm Sơn Hà viết: “Tôi đã quyết định tu chính lại tất cả các bài tôi đã viết liên quan đến trận hải chiến Hoàng Sa để in thành sách với tựa đề “Sự Thật Hải chiến Hòang Sa”, sau khi nhận được tài liệu cuối cùng mà tôi đã chờ đợi sau gần 9 năm yêu cầu các cơ quan thuộc chánh phủ Hoa Kỳ cung cấp dựa trên đạo luật FOIA (Freedom of Information Act). Và đó là phần giá trị nhất của cuốn sách “Sự Thật Hải chiến Hòang Sa”.
Tuy nhiên tôi có cảm tưởng rằng có nhiều điều qua các tài liệu mật tác giả có được do bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cung cấp tác giả thấy hoặc thoáng thấy nhưng không tiện viết ra.
1. Câu chuyện của ông đại úy Gerald Kosh người được tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gởi theo tàu hải quân ra Hoàng Sa và có mặt tại đó khi trận đánh diễn ra vẫn úp úp mở mở. Sau khi được Trung quốc trả tự do ông ta có viết một báo cáo dài, nay đã được công bố không thấy tác giả ghi lại. Mặc dù bộ Ngọai giao Hoa Kỳ đã phủ lên câu chuyện ông Kosh lờ mờ như chuyện đi chơi, nhưng ai cũng biết ông có một vai trò tình báo.
2. Tác giả không nói rõ việc Hoa Kỳ không cứu vớt thủy thủ HQVN trôi dạt trên biển, một thái độ khó biện minh đối với một đồng minh.
3. Tác giả có ghi lại sự kiện các phi đội Không quân VN vào ngày 21/1/1974 đã sẵn sàng tại căn cứ Không quân Đà Nẵng để ra Hoàng Sa oanh tạc các đơn vị Trung Cộng chiếm đóng đảo và sau đó lệnh hành quân được hủy bỏ. Tác giả không nói lý do tại sao hủy bỏ.
4. Ngày 23/1/1974 TT Nguyễn Văn Thiệu gởi thư yêu cầu TT Nixon yểm trợ “vật chất và chính trị” trước biến cố trên Biển Đông. Sự yêu cầu này nhắm tới ý của TT Thiệu muốn chiếm một số đảo tại Trường Sa. Mấy tuần sau ông đại sứ Martin đã đến trả lời miệng rằng Hoa Kỳ không tán thành những gì TT Thiệu định làm vì e ngại những phản ứng không kiểm soát được của Trung quốc trong đó có vấn đề Hoa Kỳ đang vận động thả tù nhân Mỹ, Việt mà Trung Quốc bắt tại Hoàng Sa. Tại sao Hoa Kỳ quá lo lắng về phản ứng của Trung Quốc như vậy? Giả thuyết là có một sự sắp xếp giữa hai bên “trên đầu của VNCH” và có thể cả “trên đầu của chính phủ Cộng sản tại Hà Nội”.
5. Sự sắp xếp đó có thể thấy qua cuốn hồi ký chính trị "Years of Upheaval" (Những Năm Tháng Biến Động) của ông Henry Kissinger. Ông Kissinger (lúc đó là bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ) thuật lại rằng trong chuyến công du Trung quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 để thảo luận tình hình thế giới với hai ông Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, hai bên quan tâm nhất đến sự bành trướng thế lực của Nga Xô. Ngoại trưởng Kissinger viết, trong một cuộc thảo luận giữa ông với hai ông Chu và Mao, Mao đồng ý với nhận định của ông Chu rằng Nga xô là mối đe dọa lớn nhất của Trung quốc [Mao went along cheerfully with Zhou s implications that the Soviets were now the principal threat... (“Years of Upheaval”, trang 689) ]. Trước đó trong một đoạn tóm tắt mục đích và kết quả của chuyến công du ông Kissinger viết rằng quan tâm chung của ông và ông Chu là tình hình thế giới. Ông cho biết báo chí quốc tế tường thuật chuyến công du của ông tại Trung quốc không thuận buồm xuôi gió vì vấn đề Đài Loan, nhưng thực ra đây là chuyến đi thành công nhất của ông. Hoa Kỳ và Trung quốc đã đạt đến một cái nhìn chung làm cho hai nước thắt chặt mối thân hữu, và vì những lý do tế nhị đối với Nga Xô không thể tiết lộ được.[Following the now well-established practice the heart of the visit was a detailed review of the international situation by Zhou and me, together with our senior associates... Our ties were cemented not by formal agreements but by a common assessment of the international situation... Most of our conversations, as usual, traced our shared analysis of the world situation, though for equally obvious reason of Soviet sensitivities we could not announce that fact either (“Years of Upheaval”, trang 684) ]. Qua những dòng chữ trên, có lẽ có một thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó Hoa Kỳ biết trước sau Hà Nội cũng chiếm Nam Việt Nam và không muốn Liên bang Xô Viết qua đồng minh Hà Nội dùng Hoàng Sa và Trường Sa dòm ngó eo biển Malacca. Trung quốc (đồng minh chiến lược) đóng chốt ở Hoàng Sa chận đường Nga là một nước bài đắc ý của Kissinger.
Các sự việc diễn ra sau đó giải thích giả thuyết này. Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung quốc lén lút đổ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels. Và trong trận đụng độ giữa hải quân Trung quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa ngày 19/1/1974 hạm đội 7 của Hoa Kỳ đứng né ra ngoài. Hạm đội Hoa Kỳ tránh cả việc cứu vớt thủy thủ Việt Nam bị trôi dạt trên biển dù có lời yêu cầu chính thức của Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân Trung quốc sau khi đánh bại hạm đội Việt Nam Cộng Hòa đã không truy kích để cho hạm đội VNCH an toàn trở về căn cứ Đà Nẵng (xem bài Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa của đại tá Hà Văn Ngạc). Nhưng Hoa Kỳ đã can thiệp để các thủy thủ và quân nhân bị bắt được đối đãi tử tế và trả về trong một thời gian ngắn. Riêng ông Kosh nhân viên tình báo Hoa Kỳ tháp tùng quan sát bị bắt cũng được trả tự do trong vòng một tháng. Bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc ghi nhận rằng trong thời gian trước khi hai bên nổ súng Trung quốc hết sức hòa hoãn. Có lẽ Trung quốc nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ thuyết phục được Việt Nam Cộng Hòa bỏ quần đảo Paracels. Khi hải quân Việt Nam đổ bộ lên tái chiếm các hòn đảo nhỏ chung quanh đảo Hoàng Sa mà Trung quốc đã chiếm mấy tuần trước đó họ đã bỏ đi không chống cự. Nhưng sau khi biết Hoa Kỳ không thuyết phục được tổng thống Thiệu bỏ Paracels, Trung quốc dùng sức mạnh.
Cũng còn những góc khuất về trận Hoàng Sa chưa có tài liệu nghiên cứu đến. Vai trò của Đô Đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải Quân chẳng hạn. TT Thiệu có thảo luận trực tiếp với ông không? Bộ Quốc Phòng có chỉ thị gì không? Và trong ngày 19/1 khi súng nổ ngoài Hoàng Sa ông đang làm gì? Vai trò của ông Tư Lệnh Hải quân trong trận hải chiến hết sức lờ mờ. Hình như ông muốn tránh ra ngoài cuộc chiến. Với quan hệ gần như huynh đệ với Đô Đốc Zumwalt thời gian ông Zumwalt làm cố vấn cho HQVN trong giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, có thể Đô Đốc Chơn biết Hoa Kỳ có chương trình bỏ Hoàng Sa cho Trung Quốc, và không muốn làm gì để trái với kế hoạch của Hoa Kỳ mà trên thực tế ông biết cưỡng lại cũng không được.
Ông Thềm Sơn Hà trong cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa không đặt bất cứ một câu hỏi nào về cách hành xử và thời biểu làm việc khó hiểu của ĐĐ Chơn trong ngày 19/1. Ông chỉ nêu ra một sự việc do Đại úy Lê Văn Thự, Trung Tâm trưởng Trung tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải thuật lại là ĐĐ Chơn đã khóc khi được báo cáo HQ 10 chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương.
Một vấn đề khác là viết từ miền Nam và hải ngoại trận Hoàng Sa lúc nào cũng được miêu tả là một trận chiến oai hùng của chiến sĩ Hải quân Việt Nam hy sinh để bảo vệ bờ cỏi mà không đào sâu về những khiếm khuyết khác. Cuốn sách của ông Thềm Sơn Hà cũng không đi ra ngoài thông lệ đó.
Đầu năm 2014 kỷ niệm 40 năm trận Hoàng Sa, ông Bill Hayton, một nhà sử học làm việc cho đài BBC của Anh xuất bản cuốn “The South China Sea” trong đó ông miêu tả lại với khá đầy đủ chi tiết trận hải chiến Hoàng Sa. Trước khi cuốn sách được chính thức xuất bản ông Hayton viết một tài liệu tóm tắt các diễn biến chung quanh trận đánh phổ biến (ngày 2/2/2014) trên BBC Việt ngữ online.
Ông viết: “Nhân kỉ niệm lần thứ 40 vừa qua, đã có hàng loạt các bài báo viết về trận hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974 và lòng dũng cảm của quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Tuy vậy, lại có ít thảo luận về điều thực sự diễn ra trong trận chiến”. Và sự thật qua sự nghiên cứu của ông Bill Hayton trận hải chiến Hoàng Sa không phải là màu hồng.
Ông kết luận “Đánh giá một cách khách quan, trận chiến là một thảm họa, tuy nhiên những lính quay trở về được chào đón như những người hùng. Truyền thông Nam Việt Nam được kể lại rằng đội tàu VNCH đã làm chìm hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn hơn nhiều lần. Trận chiến được thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết. Nhưng trên thực tế, đó lại là một thảm họa.”
Bài viết của ông Hayton đã tạo ra nhiều phản ứng trong giới Hải quân VNCH từng nghiên cứu về trận Hoàng Sa, cho rằng ông Hayton có ý mạ lỵ Hải quân VNCH. Lối hành văn của ông Bill Hayton có vẻ mạ lỵ, nhưng sự thật lịch sử của nó vẫn cần được quan tâm.
Với cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa ông Thềm Sơn Hà đã làm một công việc đáng ca ngợi là đào sâu thêm vào biến cố Hòang Sa với những tài liệu ông yêu cầu bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (phải) cung cấp cho ông. Cuốn sách là một thành công của tác giả mặc dù về phương diện trình bày ông đưa vào quá nhiều chi tiết đặc tính của các chiến cụ (chiến hạm, máy bay…) không cần thiết.
Và lúc này tác giả có quyền theo gương Phạm Thái trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ chúc bầu rượu hát nghêu ngao:
Tầm tay ta với không vừa.
Mộng cao chi lắm, xin chừa từ đây.
Nước sông có lúc vơi đầy,
Ta về hưu, uống rượu say quên đời!
(Thơ Thềm Sơn Hà)
Sự Thật Hải chiến Hòang Sa – Trang 4
Trần Bình Nam
Jan. 17, 2015
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Cuốn sách được tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, nguyên thứ trưởng bộ Giáo Dục VNCH viết lời giới thiệu, và cũng chính ông đích thân giới thiệu trong buổi ra mắt cuốn sách.
Từ lúc cuộc chiến xẩy ra đã có nhiều bài viết và nhiều cuộc phỏng vấn các nhân vật liên hệ bởi các chương trình Việt ngữ của các đài nước ngoài. Người được phỏng vấn nhiều nhất là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người có trách nhiệm về trận đánh. Năm 2010 Ủy Ban Hoàng Sa do cựu Thiếu Tá Hải Quân Trần Trọng Ngà (Khóa 12 SQ/HQNT) làm Trưởng Ban cùng với 7 Ủy viên khác đều là cựu sĩ quan hải quân cho xuất bản cuốn Hải Chiến Hoàng Sa.
Cho đến năm 2010, cuốn Hải Chiến Hoàng Sa là tài liệu đầy đủ và nghiêm túc nhất về trận hải chiến lịch sử này. Chỉ có một thiếu sót là không có những tài liệu còn bảo mật về phía Hoa Kỳ.
Cuốn sách của ông Thềm Sơn Hà bổ túc sự thiếu sót này. Trong Lời Mở Đầu của cuốn sách ông Thềm Sơn Hà viết: “Tôi đã quyết định tu chính lại tất cả các bài tôi đã viết liên quan đến trận hải chiến Hoàng Sa để in thành sách với tựa đề “Sự Thật Hải chiến Hòang Sa”, sau khi nhận được tài liệu cuối cùng mà tôi đã chờ đợi sau gần 9 năm yêu cầu các cơ quan thuộc chánh phủ Hoa Kỳ cung cấp dựa trên đạo luật FOIA (Freedom of Information Act). Và đó là phần giá trị nhất của cuốn sách “Sự Thật Hải chiến Hòang Sa”.
Tuy nhiên tôi có cảm tưởng rằng có nhiều điều qua các tài liệu mật tác giả có được do bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cung cấp tác giả thấy hoặc thoáng thấy nhưng không tiện viết ra.
1. Câu chuyện của ông đại úy Gerald Kosh người được tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Đà Nẵng gởi theo tàu hải quân ra Hoàng Sa và có mặt tại đó khi trận đánh diễn ra vẫn úp úp mở mở. Sau khi được Trung quốc trả tự do ông ta có viết một báo cáo dài, nay đã được công bố không thấy tác giả ghi lại. Mặc dù bộ Ngọai giao Hoa Kỳ đã phủ lên câu chuyện ông Kosh lờ mờ như chuyện đi chơi, nhưng ai cũng biết ông có một vai trò tình báo.
2. Tác giả không nói rõ việc Hoa Kỳ không cứu vớt thủy thủ HQVN trôi dạt trên biển, một thái độ khó biện minh đối với một đồng minh.
3. Tác giả có ghi lại sự kiện các phi đội Không quân VN vào ngày 21/1/1974 đã sẵn sàng tại căn cứ Không quân Đà Nẵng để ra Hoàng Sa oanh tạc các đơn vị Trung Cộng chiếm đóng đảo và sau đó lệnh hành quân được hủy bỏ. Tác giả không nói lý do tại sao hủy bỏ.
4. Ngày 23/1/1974 TT Nguyễn Văn Thiệu gởi thư yêu cầu TT Nixon yểm trợ “vật chất và chính trị” trước biến cố trên Biển Đông. Sự yêu cầu này nhắm tới ý của TT Thiệu muốn chiếm một số đảo tại Trường Sa. Mấy tuần sau ông đại sứ Martin đã đến trả lời miệng rằng Hoa Kỳ không tán thành những gì TT Thiệu định làm vì e ngại những phản ứng không kiểm soát được của Trung quốc trong đó có vấn đề Hoa Kỳ đang vận động thả tù nhân Mỹ, Việt mà Trung Quốc bắt tại Hoàng Sa. Tại sao Hoa Kỳ quá lo lắng về phản ứng của Trung Quốc như vậy? Giả thuyết là có một sự sắp xếp giữa hai bên “trên đầu của VNCH” và có thể cả “trên đầu của chính phủ Cộng sản tại Hà Nội”.
5. Sự sắp xếp đó có thể thấy qua cuốn hồi ký chính trị "Years of Upheaval" (Những Năm Tháng Biến Động) của ông Henry Kissinger. Ông Kissinger (lúc đó là bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ) thuật lại rằng trong chuyến công du Trung quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 để thảo luận tình hình thế giới với hai ông Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, hai bên quan tâm nhất đến sự bành trướng thế lực của Nga Xô. Ngoại trưởng Kissinger viết, trong một cuộc thảo luận giữa ông với hai ông Chu và Mao, Mao đồng ý với nhận định của ông Chu rằng Nga xô là mối đe dọa lớn nhất của Trung quốc [Mao went along cheerfully with Zhou s implications that the Soviets were now the principal threat... (“Years of Upheaval”, trang 689) ]. Trước đó trong một đoạn tóm tắt mục đích và kết quả của chuyến công du ông Kissinger viết rằng quan tâm chung của ông và ông Chu là tình hình thế giới. Ông cho biết báo chí quốc tế tường thuật chuyến công du của ông tại Trung quốc không thuận buồm xuôi gió vì vấn đề Đài Loan, nhưng thực ra đây là chuyến đi thành công nhất của ông. Hoa Kỳ và Trung quốc đã đạt đến một cái nhìn chung làm cho hai nước thắt chặt mối thân hữu, và vì những lý do tế nhị đối với Nga Xô không thể tiết lộ được.[Following the now well-established practice the heart of the visit was a detailed review of the international situation by Zhou and me, together with our senior associates... Our ties were cemented not by formal agreements but by a common assessment of the international situation... Most of our conversations, as usual, traced our shared analysis of the world situation, though for equally obvious reason of Soviet sensitivities we could not announce that fact either (“Years of Upheaval”, trang 684) ]. Qua những dòng chữ trên, có lẽ có một thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa. Lúc đó Hoa Kỳ biết trước sau Hà Nội cũng chiếm Nam Việt Nam và không muốn Liên bang Xô Viết qua đồng minh Hà Nội dùng Hoàng Sa và Trường Sa dòm ngó eo biển Malacca. Trung quốc (đồng minh chiến lược) đóng chốt ở Hoàng Sa chận đường Nga là một nước bài đắc ý của Kissinger.
Các sự việc diễn ra sau đó giải thích giả thuyết này. Một tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung quốc lén lút đổ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels. Và trong trận đụng độ giữa hải quân Trung quốc và hải quân Việt Nam Cộng Hòa ngày 19/1/1974 hạm đội 7 của Hoa Kỳ đứng né ra ngoài. Hạm đội Hoa Kỳ tránh cả việc cứu vớt thủy thủ Việt Nam bị trôi dạt trên biển dù có lời yêu cầu chính thức của Việt Nam Cộng Hòa. Hải quân Trung quốc sau khi đánh bại hạm đội Việt Nam Cộng Hòa đã không truy kích để cho hạm đội VNCH an toàn trở về căn cứ Đà Nẵng (xem bài Trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa của đại tá Hà Văn Ngạc). Nhưng Hoa Kỳ đã can thiệp để các thủy thủ và quân nhân bị bắt được đối đãi tử tế và trả về trong một thời gian ngắn. Riêng ông Kosh nhân viên tình báo Hoa Kỳ tháp tùng quan sát bị bắt cũng được trả tự do trong vòng một tháng. Bài viết của đại tá Hà Văn Ngạc ghi nhận rằng trong thời gian trước khi hai bên nổ súng Trung quốc hết sức hòa hoãn. Có lẽ Trung quốc nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ thuyết phục được Việt Nam Cộng Hòa bỏ quần đảo Paracels. Khi hải quân Việt Nam đổ bộ lên tái chiếm các hòn đảo nhỏ chung quanh đảo Hoàng Sa mà Trung quốc đã chiếm mấy tuần trước đó họ đã bỏ đi không chống cự. Nhưng sau khi biết Hoa Kỳ không thuyết phục được tổng thống Thiệu bỏ Paracels, Trung quốc dùng sức mạnh.
Cũng còn những góc khuất về trận Hoàng Sa chưa có tài liệu nghiên cứu đến. Vai trò của Đô Đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh Hải Quân chẳng hạn. TT Thiệu có thảo luận trực tiếp với ông không? Bộ Quốc Phòng có chỉ thị gì không? Và trong ngày 19/1 khi súng nổ ngoài Hoàng Sa ông đang làm gì? Vai trò của ông Tư Lệnh Hải quân trong trận hải chiến hết sức lờ mờ. Hình như ông muốn tránh ra ngoài cuộc chiến. Với quan hệ gần như huynh đệ với Đô Đốc Zumwalt thời gian ông Zumwalt làm cố vấn cho HQVN trong giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh, có thể Đô Đốc Chơn biết Hoa Kỳ có chương trình bỏ Hoàng Sa cho Trung Quốc, và không muốn làm gì để trái với kế hoạch của Hoa Kỳ mà trên thực tế ông biết cưỡng lại cũng không được.
Ông Thềm Sơn Hà trong cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa không đặt bất cứ một câu hỏi nào về cách hành xử và thời biểu làm việc khó hiểu của ĐĐ Chơn trong ngày 19/1. Ông chỉ nêu ra một sự việc do Đại úy Lê Văn Thự, Trung Tâm trưởng Trung tâm Hành Quân Vùng 1 Duyên Hải thuật lại là ĐĐ Chơn đã khóc khi được báo cáo HQ 10 chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương.
Một vấn đề khác là viết từ miền Nam và hải ngoại trận Hoàng Sa lúc nào cũng được miêu tả là một trận chiến oai hùng của chiến sĩ Hải quân Việt Nam hy sinh để bảo vệ bờ cỏi mà không đào sâu về những khiếm khuyết khác. Cuốn sách của ông Thềm Sơn Hà cũng không đi ra ngoài thông lệ đó.
Đầu năm 2014 kỷ niệm 40 năm trận Hoàng Sa, ông Bill Hayton, một nhà sử học làm việc cho đài BBC của Anh xuất bản cuốn “The South China Sea” trong đó ông miêu tả lại với khá đầy đủ chi tiết trận hải chiến Hoàng Sa. Trước khi cuốn sách được chính thức xuất bản ông Hayton viết một tài liệu tóm tắt các diễn biến chung quanh trận đánh phổ biến (ngày 2/2/2014) trên BBC Việt ngữ online.
Ông viết: “Nhân kỉ niệm lần thứ 40 vừa qua, đã có hàng loạt các bài báo viết về trận hải chiến Hoàng Sa 19/1/1974 và lòng dũng cảm của quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Tuy vậy, lại có ít thảo luận về điều thực sự diễn ra trong trận chiến”. Và sự thật qua sự nghiên cứu của ông Bill Hayton trận hải chiến Hoàng Sa không phải là màu hồng.
Ông kết luận “Đánh giá một cách khách quan, trận chiến là một thảm họa, tuy nhiên những lính quay trở về được chào đón như những người hùng. Truyền thông Nam Việt Nam được kể lại rằng đội tàu VNCH đã làm chìm hai tàu và ngăn cản được hạm đội Trung Quốc lớn hơn nhiều lần. Trận chiến được thêu dệt ly kì như huyền thoại vào đúng dịp Tết. Nhưng trên thực tế, đó lại là một thảm họa.”
Bài viết của ông Hayton đã tạo ra nhiều phản ứng trong giới Hải quân VNCH từng nghiên cứu về trận Hoàng Sa, cho rằng ông Hayton có ý mạ lỵ Hải quân VNCH. Lối hành văn của ông Bill Hayton có vẻ mạ lỵ, nhưng sự thật lịch sử của nó vẫn cần được quan tâm.
Với cuốn Sự Thật Hải chiến Hòang Sa ông Thềm Sơn Hà đã làm một công việc đáng ca ngợi là đào sâu thêm vào biến cố Hòang Sa với những tài liệu ông yêu cầu bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (phải) cung cấp cho ông. Cuốn sách là một thành công của tác giả mặc dù về phương diện trình bày ông đưa vào quá nhiều chi tiết đặc tính của các chiến cụ (chiến hạm, máy bay…) không cần thiết.
Và lúc này tác giả có quyền theo gương Phạm Thái trong Tiêu Sơn Tráng Sĩ chúc bầu rượu hát nghêu ngao:
Tầm tay ta với không vừa.
Mộng cao chi lắm, xin chừa từ đây.
Nước sông có lúc vơi đầy,
Ta về hưu, uống rượu say quên đời!
(Thơ Thềm Sơn Hà)
Sự Thật Hải chiến Hòang Sa – Trang 4
Trần Bình Nam
Jan. 17, 2015
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Gửi ý kiến của bạn