Hôm nay,  

Tàu Không Hợp Tác, Ta Chẳng Đấu Tranh

17/12/201400:00:00(Xem: 3418)

Nội trong ngày 26 tháng 11 vừa qua, hai tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá ngư cụ, ngư sản nhiều lần tại khu vực biển Hoàng Sa. Những ngư dân khốn khổ Việt Nam phải lạy lục bọn cướp biển mang danh nghĩa “cơ quan thi hành pháp luật Trung Quốc“, mới được chúng tha cho mạng sống để cùng những con tàu đánh cá đầy thương tích “may mắn“ về được đến bến nhà Quảng Ngãi trong nỗi hoảng loạn cùng cực. Nói “may mắn“ là vì đã bao nhiêu lần tàu đánh cá của ngư dân ta gặp tàu Trung Quốc, người thì bị bắn giết, tàu thì bị đâm chìm ngay trên biển nhà.

Chuyện hai con tàu đánh cá của ông Đỗ Thành và Phạm Ý vừa kể chỉ là hai trường hợp mới nhất trong hàng ngàn vụ “tàu lạ đâm chìm tàu ta“ diễn ra suốt hơn 10 năm qua. Những chuyện thương tâm mà ngư dân Việt Nam phải chịu đựng trong bối cảnh như được ngư dân Đỗ Thành kể lại: Nhà nước kêu đi ra Hoàng Sa để bám biển giữ cho Nhà nước thì mình ra làm chứ có biết gì đâu! Chỗ nào Nhà nước bảo đi làm thì mình đến thôi. Đi đánh bắt thì chẳng có tàu hải quân nào bảo vệ“(1). Chắc chắn cảnh này sẽ còn tiếp diễn ngày nào đảng CSVN còn coi Bắc Kinh "vừa là thầy vừa là anh". Thái độ của lãnh đạo đảng CSVN trước việc Trung Quốc gặm nhấm dần chủ quyền biển đảo Việt Nam từ xưa đến nay đã chứng minh quá rõ điều này.

Chính vì vậy mà dân chúng bật ra nhiều câu hỏi khi thấy tại kỳ họp quốc hội vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố đối sách trên biển Đông của Việt Nam là: “Vừa hợp tác, vừa đấu tranh“ với Trung Quốc. Hợp tác như thế nào? Đấu tranh ra làm sao?

Về phía Trung Quốc thì những hành động thù nghịch, gây rối liên tục trên biển Đông của họ gần như đã được các cơ quan truyền thông nhiều nước đề cập đến thường xuyên, nên có lẽ không cần liệt kê chi tiết nữa. Nhưng có thể tóm gọn bằng lời nhận định của Đô Đốc Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ Huy Mỹ ở Thái Bình Dương, trong cuộc họp báo tại Trung tâm Đông-Tây, Hawaii hôm 28-8 rằng: những hành động của Trung Quốc ở biển Đông là những hành vi khiêu khích, gây rối và vô trách nhiệm (2).

Về phía Việt Nam thì phải kể đến hai loại phản ứng: từ phía dân chúng và từ phía nhà cầm quyền. Đối với người dân, trước những vụ tàu ngư dân ta bị bọn giặc Tàu hiếp đáp trên vùng biển của ta đến nỗi ngư dân ta phải lạy chúng mới tha, người Việt khắp nơi không chỉ thấy đau lòng mà còn phẫn nộ. Nếu phẫn nộ về sự tàn ác và khiêu khích trắng trợn của Tàu một, thì phẫn nộ gấp mười những kẻ cầm quyền Việt Nam cực kỳ hung tợn với đồng bào mình, nhưng lại vô cùng hèn nhát với giặc. Bởi vậy câu ''hèn với giặc, ác với dân“ đã trở thành câu nói nằm lòng của dân chúng khi nói về chế độ. Đối với dân chúng thì chế độ tại Việt Nam chỉ có được một sản phẩm tốt, đó là đoạn băng phản đối Trung Quốc của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam. Dù đã phát đi phát lại không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn “tốt“ như lúc đầu, không sai lấy một chữ.

Còn phản ứng của nhà cầm quyền là đùn cho ngư dân tay không ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước. Quân đội dù đã được chi biết bao ngân quĩ quốc gia để sắm mua vũ khí nhưng tất cả được lệnh “không làm phức tạp thêm tình hình” nên chỉ ngồi trên bờ để quan sát và gắn thêm hàm tướng cho nhau. Ở cấp lãnh đạo thượng tầng, họ chỉ biết thay nhau ca ngợi tầm quan trọng của “tình hữu nghị Việt – Trung“. Tướng Phùng Quang Thanh đã nói như vậy tại Hội Nghị Bộ Trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN. Không những thế, trong khi các quốc gia đều quan tâm đến tình hình Trung Quốc gây bất ổn ở biển Đông và thương cảm Việt Nam thì tướng Thanh coi những “va chạm“ với Trung Quốc là “chuyện gia đình“ (như hàm ý Việt Nam là một phần của Trung Quốc theo đúng tinh thần Hội nghị Thành Đô). Điệp khúc ca ngợi tầm quan trọng của “tình hữu nghị Việt – Trung“ cùng “16 chữ vàng“ cũng được các giới chức cao cấp cả Việt Nam lẫn Trung Quốc lập lại sau chuyến 13 tướng lãnh Việt Nam và tướng công an Trần Đại Quang sang chầu Bắc Kinh.

Từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào mùa hè năm nay, Bắc Kinh đã chứng minh cho cả thế giới thấy họ muốn đưa giàn khoan vào lãnh hải của Việt Nam lúc nào thì đưa, muốn rút đi lúc nào thì rút, và nay đang công khai chuẩn bị đưa 9 giàn khoan mới vào biển Đông sau mùa biển động. Cùng lúc, Bắc Kinh tiếp tục ngang nhiên gia tăng việc bơm cát mở rộng, tôn tạo các đảo, các bãi ngầm mà Trung Quốc đã lấn chiếm thành những căn cứ quân sự; tiếp tục tông chìm tàu bè, hiếp đáp ngư dân Việt Nam.


Trong khi đó, lãnh đạo Việt Nam chỉ biết tiếp tục cho toàn đảng học tập “Mỹ mới là kẻ thù chính và lâu dài“; và tiếp tục chính sách “ba không“ về quốc phòng (3).

Rõ ràng thực tế suốt một thập niên qua cho thấy: BẮC KINH KHÔNG HỀ HỢP TÁC và HÀ NỘI CHẲNG HỀ ĐẤU TRANH.

Qui luật trên đã được ông Nguyễn Phú Trọng gián tiếp xác nhận một lần nữa trong buổi tiếp xúc với “cử tri“ Hà Nội vào ngày 6/12/2014: “Xung quanh vấn đề biển Đông có ý kiến nói là chúng ta mềm quá phải kiên quyết hơn nữa. Vậy kiên quyết hơn thì phải làm thế nào? Đây là vấn đề rất lớn và trung ương chỉ đạo chặt chẽ. Trong thời gian Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan thì Bộ Chính trị họp liên tục. Chúng ta phối hợp rất nhiều biện pháp, huy động sức mạnh tổng hợp để đấu tranh...“(4). Đây là bài học thuộc lòng bất biến được dùng trong suốt một thập niên qua, nếu dịch ra tiếng Việt chỉ có nghĩa là không có việc làm cụ thể nào cả! Hay nói cách khác, lãnh đạo đảng đã họp vô số lần nhưng không biết phải làm gì cả! Ngay cả quốc hội Việt Nam cũng không dám ra một nghị quyết nào về biển Đông, mà phải chờ quốc hội Mỹ ra nghị quyết rồi “ăn theo“.

Chính vì thế mà nhiều chuyên gia Việt Nam đã vô cùng chán nản khi góp hết tâm huyết cố thuyết phục việc kiện Trung Quốc ra trước quốc tế để bảo vệ chủ quyền, nhưng Hà Nội vẫn chỉ ngồi bất động. Hà Nội không dám kiện, nhưng lại “ăn theo“ Phillipine khi nước này kiện Trung Quốc. Hôm 5/12 vừa qua, Hà Nội chuyển đến Toà án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration – PCA) một tuyên bố chính thức về các "quyền lợi ích" của mình ở Biển Đông. Một việc mà Giáo sư Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, gọi là “kiện cửa sau“ (5) và chỉ là “hành động tối thiểu“ mà Hà nội dám làm. Lãnh đạo đảng không dám nhắc đến cả từ "chủ quyền Việ Nam" trong công văn nói trên.

Tóm lại, “vừa hợp tác vừa đấu tranh“ của lãnh đạo đảng CSVN là như thế. Nghĩa là vẫn theo sát lời dạy của đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường trong cuộc họp báo tại Hà Nội đầu năm 2010: “Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại“(6).

Trong bài “Tháng 12 ngoài Gạc Ma“ trên trang điện tử báo Thanh Niên ngày 07/12 (7), nhà báo Mai Thanh Hải đã thuật lại, khi những người lính trên tàu HQ-011 Đinh Tiên Hoàng đến gần đảo Gạc Ma trong một chuyến công tác, nhìn thấy Trung Quốc chỉ trong vài tháng đã biến đổi bãi đá san hô ngầm mà họ đã đánh chiếm trái phép từ tay những người lính hải quân nhân dân Việt Nam, thành căn cứ quân sự của họ. Các chiến sĩ hải quân tàu HQ-011 “Khuôn mặt ai cũng sắt lại, uất ức, từ vị đại tá già cho đến cậu chiến sĩ mới nhập ngũ. Đây Gạc Ma - bãi đá thiêng liêng của Tổ quốc đã bị Trung Quốc bất ngờ nổ súng tấn công, giết hại 64 cán bộ chiến sĩ công binh hải quân Lữ đoàn 83, Lữ đoàn 146 bảo vệ đảo Trường Sa, Học viện Hải quân, Đoàn đo đạc bản đồ Bộ Tham mưu hải quân, Lữ đoàn tàu 125, và bắn cháy, bắn chìm 3 tàu vận tải HQ-604, HQ-605, HQ-505 của chúng ta, trong buổi sáng 14.3.1988.“

Điều mà có lẽ nhà báo Mai Thanh Hải và các chiến sĩ trên tàu HQ-011 không biết là sự bi thương vừa kể cũng đến từ sự “hợp tác“ của Bộ Chính Trị đảng CSVN với Bắc Kinh qua lệnh “không được nổ súng“ để tự vệ và bảo vệ Gạc Ma. Tước đó nữa là “sự hợp tác“ bằng công hàm Phạm Văn Đồng; và sau đó là hội nghị Thành Đô, các hiệp định phân định biên giới trên bộ và trên biển,... Tất cả đã đặt nền tảng cho tình cảnh biển Đông ngày hôm nay.

Ghi chú

1. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-fish-atk-by-cn-ship-12012014051427.html

2. http://www.washingtontimes.com/news/2014/aug/29/china-actively-agitating-creating-instability-says/?page=all

3. Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.

4. http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20141207/khon-kheo-de-bao-ve-chu-quyen/681645.html

5. http://vi.rfi.fr/20141212-bien-dong/

6. Tôn Quốc Tường, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam: “Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại“ http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/

7. Tháng 12 ngoài Gạc Ma, http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141206/thang-12-ngoai-gac-ma.aspx

http://www.viettan.org/Tau-khong-hop-tac-Ta-chang-dau.html

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.