Hôm nay,  

Tài liệu về cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Biển Đông

12/12/201421:11:00(Xem: 4946)

Tài liệu về cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Biển Đông

Tác giả: Gregory B. Poling

Người dịch: Trần Văn Minh

Ngày 10-12-2014

https://anhbasam.wordpress.com/2014/12/13/3173-tai-lieu-ve-cuoc-doi-dau-giua-trung-quoc-va-hoa-ky-o-bien-dong/

Bắc Kinh đang tiến nhanh tới gần thời hạn 15 tháng 12 để đệ trình phản luận ra tòa án trọng tài quốc tế về các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, do Philippines đệ đơn kiện. Hồ sơ này được đặt dưới cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc dựa theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), được tóm tắt ở đây. Chính phủ Trung Quốc không có ý định tham gia vụ kiện, hoặc bác bỏ 4.000 trang chứng cứ và lập luận của Philippines, nhưng Trung Quốc cũng muốn bảo đảm rằng năm thẩm phán xét xử vụ án tại Tòa án Trọng tài Thường trực để ý tới các lập luận của Trung Quốc trong phán quyết.

Với mục đích đó, ngày 7 tháng 12, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố một tài liệu nói về phản luận pháp lý của Trung Quốc đối với vụ kiện. Hai ngày trước đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố một bản phân tích được chờ đợi từ lâu về tính hợp pháp của các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông của Bắc Kinh, qua một chuỗi các bài nghiên cứu về Các Giới hạn trên Biển. Thời gian công bố của hai phiên bản này, cả hai đều liên quan đến nhau và đến giai đoạn tiếp theo của vụ án trọng tài, cho thấy rằng các nhà hoạch định chính sách ở Bắc Kinh và Washington nhận ra giá trị của việc chiếm lãnh tính hợp pháp ở Biển Đông và đang mong muốn ảnh hưởng đến tòa án trọng tài ngay cả khi họ không trực tiếp tham gia vào vụ việc.

Bài viết về lập trường của Trung Quốc nói gì?

Phần cốt lõi trong tài liệu của Trung Quốc đưa ra các lập luận của Bắc Kinh về lý do tại sao tòa án trọng tài Hague thiếu thẩm quyền trong vụ kiện của Philippines. Trung Quốc cho rằng:

1. Trọng tâm của vụ án không phải là giải thích về UNCLOS, nhưng về chủ quyền lãnh thổ – người nào sở hữu những thứ gì – trong đó UNCLOS không có thẩm quyền. Lập luận này không thuyết phục, ít nhất không phải trong công thức của Trung Quốc rằng để có phán quyết về bất cứ luận điểm của Philippines, tòa án “sẽ khó tránh khỏi phải xác định, trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ quyền trên cả thực thể biển được đề cập và các thực thể biển khác trong biển Đông”.

2. Ngay cả khi vụ kiện liên quan tới UNCLOS, Philippines không có quyền mang ra tòa. Trung Quốc lập luận rằng Philippines có bổn phận tuân thủ cả hai văn kiện song phương và đặc biệt là trong các Tuyên bố năm 2002 ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông(DOC) để chỉ giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán. Có hay không nghĩa vụ ràng buộc đó được ký kết là điều rấtnghi ngờ, nhưng dù sao đi nữa, Manila có thể dễ dàng cho rằng các vi phạm của Trung Quốc đã vô hiệu hóa DOC.

Trung Quốc cũng cho rằng Philippines đã không đáp ứng được yêu cầu UNCLOS để chỉ theo đuổi trọng tài bắt buộc sau khi không đạt được một thỏa thuận song phương. Bắc Kinh khẳng định rằng mặc dù nhiều thập niên đàm phán, “hai quốc gia chưa bao giờ chú tâm đàm phán về các vấn đề cần phải có trọng tài”, và thậm chí nếu đã có, UNCLOS không xác định thời hạn cho các cuộc đàm phán như vậy. Nếu được chấp nhận, dòng suy luận này có thể ngăn cản một quốc gia để không bao giờ có thể sử dụng phương cách giải quyết tranh chấp bắt buộc, bất kể bên kia kéo dài cuộc đàm phán bao lâu.

Ngay cả khi Manila có quyền, Trung Quốc được miễn trọng tài bắt buộc. Đây là luận cứ thuyết phục nhất của Bắc Kinh. Nó dựa trên tuyên bốnăm 2006 của Trung Quốc, được UNCLOS cho phép, trong đó Trung Quốc được miễn trọng tài trên một số chủ đề bao gồm cả chuyện phân định biển. Philippines đã thực hiện một công việc đáng ngưỡng mộ, định hướng vụ kiện của mình về nghĩa vụ của Trung Quốc để làm sáng tỏ đường chín đoạn và ý nghĩa của nó, không phải về việc phân định vùng biển tranh chấp.

Nhưng lập luận của Manila không phải là một cú đá thủng lưới. Đáng lo ngại nhất đối với Philippines là các luật sư của họ cảm thấy bắt buộc phải có giải thích về hiện trạng của Itu Aba, đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, trong đơn đệ trình tòa án ngày 30 tháng 3. Nếu tòa quyết định Itu Aba (hoặc bất kỳ thực thể nào) là một hòn đảo có khả năng pháp lý tạo ra một vùng thềm lục địa, thì điều này có thể có khả năng sẽ làm suy yếu một phần lập luận của Philippines, đặc biệt là đối với những thực thể thủy triều thấp. Nhưng điều đáng chú ý là tài liệu về lập trường của Trung Quốc không chỉ ra chi tiết điểm này, chừa lại cho các thẩm phán tòa trọng tài nối liền các dấu chấm.

4. Ngay cả khi Trung Quốc không được miễn trừ, việc nhờ tới một tòa án trọng tài đặc biệt trong những trường hợp trong đó một nhà nước đã không được lựa chọn một trong các giải pháp trọng tài khác được UNCLOS cho phép là vi phạm luật pháp quốc tế. Điều này về cơ bản là đặt câu hỏi về một điều khoản UNCLOS mà Trung Quốc đã đồng ý năm 1996. Đây là lập luận ít thuyết phục nhất của Trung Quốc, đặc biệt là vì khó có thể dự đoán được rằng một tòa án được thành lập theo quy định của UNCLOS sẽ cảm thấy có thẩm quyền phủ quyết sự giải thích hợp lý duy nhất của một trong những điều khoản.

Được biết, trong bối cảnh lập luận chống lại thẩm quyền của tòa án, Trung Quốc cũng đã chạm đến tính hợp pháp của vụ kiện (mặc dù nhấn mạnh trong phần giới thiệu rằng nó sẽ không làm như vậy). Cụ thể, Trung Quốc tranh luận về một quốc gia có quyền tuyên bố chủ quyền trên một thực thể thủy triều thấp, mặc dù thừa nhận rằng Tòa án Công lý Quốc tế năm 2012 phán quyết rằng một tuyên bố như vậy là không được phép. Trung Quốc cũng bảo vệ các hành động của mình tại bãi cạn Scarborough và Second Thomas từ năm 2012, điều mà Philippines mô tả như việc sử dụng vũ lực để đe dọa. Tuy nhiên, các tài liệu lập trường của Trung Quốc không đề cập tới phân loại của những thực thể đó, mà Philippines xác định là bãi đá chứ không phải là hòn đảo, Trung Quốc cũng không bảo vệ đường chín đoạn như là một tuyên bố chủ quyền không gian hàng hải phù hợp với UNCLOS – hai dấu chỉ về sự yếu kém của vị thế pháp lý của Trung Quốc trên các điểm đó.

Nghiên cứu của Hoa Kỳ nói gì?

Các nghiên cứu về Giới hạn trên biển của Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) đã xem xét các tuyên bố chủ quyền của hàng chục quốc gia, bao gồm Indonesia, Philippines, và Việt Nam. Báo cáo mới nhất không chạm tới tính chính đáng của tuyên bố chủ quyền đối với các hòn đảo ở Biển Đông, nhắc lại lập trường trung lập của Mỹ.

Phát hiện chính của nghiên cứu là “Trung Quốc đã không làm rõ cơ sở pháp lý hay bản chất yêu sách của mình”. Nghiên cứu chỉ ra rằng, đường chín đoạn thiếu “thống nhất về địa lý và tính chính xác”, điểm này được nhấn mạnh qua sự đối chiếu nhiều bản đồ của Trung Quốc cho thấy sự khác biệt đáng kể trong các vị trí của các dấu gạch. Điều này cung cấp một số hỗ trợ cho các luận điểm trong vụ kiện của Philippines bao gồm các bãi đá và thực thể thủy triều thấp bị Trung Quốc chiếm đóng. Tại trung tâm điểm, bản phân tích đề nghị bác bỏ đường chín đoạn như là một tuyên bố hàng hải có giá trị, và do đó đứng cùng với tâm điểm vụ kiện của Philippines.

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình bày ba cách diễn giải khả dĩ của đường chín đoạn và phân tích tính hợp pháp của chúng. Mỗi lời giải thích này cùng lúc hỗ trợ và mâu thuẫn với luật pháp Trung Quốc và các công bố chính thức:

1. Về việc tuyên bố chủ quyền các hòn đảo và vùng biển xung quanh. Nghiên cứu tìm thấy rằng các tuyên bố này có thể là một định nghĩa thống nhất về mặt pháp lý của đường chín đoạn, nhưng chỉ ra rằng nó có nhiều điểm đáng báo động. Ví dụ một điểm, “các tòa án quốc gia, quốc tế và các tòa án khác thường đồng ý rằng các đảo quá nhỏ và xa bờ biển đại lục, có trọng lượng bằng hoặc nhỏ hơn đường bờ biển (của đại lục) đối diện”. Điều này có nghĩa là Trung Quốc, một cách tốt nhất, chỉ có thể biện minh cho một khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng đến một đường trung tuyến giữa các đảo họ tuyên bố chủ quyền và bờ biển của các nước láng giềng Đông Nam Á.

2. Một ranh giới hàng hải. Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) chỉ ra rằng đường chín đoạn kéo dài quá xa bất kỳ bờ biển hay hải đảo nào không thể biện minh một cách hợp pháp để trở thành ranh giới của một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và chắc chắn cũng không là lãnh hải. Nghiên cứu này cũng cáo buộc rằng sự thiếu chính xác và tính cách đơn phương của tuyên bố chủ quyền không đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một biên giới biển hợp pháp.

3. Một tuyên bố chủ quyền dựa trên danh nghĩa hoặc quyền lợi lịch sử. Đây là các luận cứ pháp lý phức tạp nhất do các học giả Trung Quốc đưa ra về đường chín đoạn. Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) chỉ ra chính xác rằng UNCLOS “giới hạn tính thích đáng của các tuyên bố lịch sử đối với sự phân định vịnh và lãnh hải” gần bờ biển của một quốc gia. Không có gì trong các quy ước (quốc tế) biện giải cho một tuyên bố chủ quyền lịch sử và quyền mở rộng xa bờ biển.

Và trái với khẳng định của một số học giả Trung Quốc về luật lệ thông thường trước UNCLOS cho phép đòi hỏi như thế, Bộ Ngoại giao (Hoa Kỳ) khẳng định chính xác rằng quy ước quốc tế có quyền ưu tiên. Để chứng minh, Hoa Kỳ trích dẫn phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế rằng sự ra đời của các vùng EEZ “có quyền phủ quyết việc sử dụng và quyền trước đó của các nước khác trong khu vực” – một sự bác bỏ rõ ràng về các yêu sách của Trung Quốc với các quyền lịch sử liên quan tới hải sản và dầu khí.

Chuyện gì xảy ra kế tiếp ở tòa án trọng tài?

Trung Quốc sẽ không đệ trình bất cứ tài liệu gì vào ngày 15 tháng 12 để đáp ứng với thời hạn của tòa án. Điều này có nghĩa là các thẩm phán sẽ phải tự xem xét các phản luận mà Bắc Kinh có thể đưa ra. Đây là lý do tại sao việc phát hành tài liệu về lập trường của Trung Quốc rất quan trọng. Sự việc đã được tính toán để bảo đảm rằng các thẩm phán đặt những câu hỏi đúng, dưới quan điểm của Trung Quốc. Các chuyên gia ở Trung Quốc biết rằng Bắc Kinh sẽ mất ít nhất một điểm nếu vụ kiện kéo dài. Đường chín đoạn trong hình thể hiện tại không đáp ứng bất cứ yêu cầu nào của một tuyên bố hàng hải hợp pháp – một điểm trong nghiên cứu mới của Mỹ nhấn mạnh – và đòi hỏi phải làm sáng tỏ.

Đó là lý do tại sao Trung Quốc, ngay cả khi từ chối để chính thức tham gia vụ kiện, đã đầu tư công sức đáng kể trong việc soạn thảo một hồ sơ pháp lý chống lại tiến trình phân xử. Mặc dù làm ầm ĩ, Bắc Kinh không muốn coi thường phán quyết của tòa án quốc tế và phải gánh chịu các phí tổn cơ hội khi bị xem là một nước vô trách nhiệm trong hệ thống quốc tế.

Bước tiếp theo, tòa án sẽ yêu cầu nhóm pháp lý của Philippines trả lời các câu hỏi và phản luận khả dĩ liên quan đến hồ sơ đệ trình tháng 3. Những câu hỏi đó có thể sẽ bao gồm nhiều điểm được nêu ra trong tài liệu lập trường của Trung Quốc, cũng như trong những tài liệu khác, bởi vì các quan tòa sẽ không phán quyết trên như một hồ sơ quan trọng và gây tranh cãi như thế, trừ phi họ cảm thấy không còn sơ hở.

Sau khi Philippines trả lời – một việc sẽ phải mất vài tháng – các quan tòa sẽ xem xét vấn đề về thẩm quyền tài phán và tính pháp lý của vụ kiện. Họ dường như đã sẵn sàng để xem xét cả hai cùng một lúc, giúp làm nhanh chóng tiến trình phân xử. Không có thời gian nhất định để có phán quyết, và có thể có nhiều yêu cầu hơn cho Philippines để làm rõ các luận điểm. Nhưng vào cuối năm 2015, và có lẽ trước đó, tòa án nên đưa ra quyết định của mình – một khả năng tác động mạnh nhất bởi bất kỳ tòa án nào được thành lập dựa theo UNCLOS.

Gregory B. Poling là một thành viên trong diễn đàn Sumitro Chair for Southeast Asia Studies tại CSIS. Có thể theo dõi ông trên Twitter @GregPoling. Bài viết này lần đầu xuất hiện trên blog CSIC Asia Policy, cogitASIA và bản tin CSIS Pacnet.


.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.