Hôm nay,  

Về Sự Hợp Nhất Qua Hai Khái Niệm Đoàn Kết Và Thống Nhất

04/12/201400:00:00(Xem: 3692)

Có hai từ cùng bao hàm một nghĩa “hợp nhất” đó là “đoàn kết” và “thống nhất”. Trong sách vở dưới chế độ độc tài cộng sản, với nhu cầu kêu gọi sự trung thành của mọi thành phần dân chúng với duy nhất một đảng cộng sản, hai từ này rất được ưa chuộng và luôn mang nghĩa tốt đẹp. Đoàn kết là sự hợp nhất, hay nói cách khác là sự kết hợp thành một khối vì có chung lý tưởng, giá trị, quyền lợi hay mục tiêu. “Thống nhất” cũng bao hàm nghĩa “hợp nhất” của các thực thể nhỏ thành thực thể lớn hơn.

Trong thời đại của sự đề cao đa nguyên này, khái niệm đoàn kết hay thống nhất có làm chúng ta cảm thấy mâu thuẫn và bối rối? Quả thật, từ lâu con người luôn tự mâu thuẫn về nhiều khái niệm mang tính nhị nguyên như tự do hay trật tự, đa nguyên hay hợp nhất. Nhưng thiết nghĩ, xã hội loài người quá phức tạp để cho phép chúng ta phân biệt và tách rời các tính chất của nó thành những khái niệm nhị nguyên như trên.

Với đặc trưng văn hóa của mình, người Việt chúng ta nói chung luôn có xu hướng đề cao sự hợp nhất hoặc bất cứ cái gì liên quan đến sự hợp nhất mà bỏ qua các mặt trái của chúng. Không biết các bạn trẻ có cảm giác hân hoan trong giờ học lịch sử khi chúng ta nghe giảng đến đoạn Đinh Bộ Lĩnh (bản thân là một sứ quân) dẹp loạn 12 sứ quân không? Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ cái cảm giác đó của mình. Lúc đó, trong đầu óc của một cô bé vị thành niên chịu ảnh hưởng bởi văn hóa “cổ truyền” và cộng sản, hợp nhất là điều gì đó rất đáng mừng, đáng ca ngợi?!

Người viết chỉ lạm bàn về sự hợp nhất trên ba bình diện: lãnh thổ, văn hóa, chính trị… Sự hợp nhất về lãnh thổ và chính trị quốc gia tất nhiên có mặt tốt là huy động hiệu quả nỗ lực tập thể để chống ngoại xâm và xây dựng quyền lực quốc gia; nhưng đồng thời nó cũng tiêu diệt sự đa dạng và tính khác biệt. Sự thống nhất về bản sắc văn hóa càng phi lý và nguy hiểm hơn vì nó không cho phép sự tồn tại của tinh thần khoan dung văn hóa – một đặc điểm không thể thiếu của nền dân chủ tự do.

Nước Tàu thời Xuân Thu – Chiến Quốc và chính nó thời trung ương tập quyền sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất lãnh thổ là một minh chứng hùng hồn. Thời Xuân Thu – Chiến Quốc, Tàu có nhiều nhà tư tưởng, lý thuyết gia và thuyết khách có thể đi từ nước này đến nước khác để truyền bá tư tưởng mà không sợ bị đàn áp; bởi nếu họ bị ghét ở nước này, họ có thể đến nước khác. Nhưng thật không may, sau sự thống nhất về lãnh thổ là sự chuyên chính về chính trị và độc tôn về văn hóa Khổng Nho. Tại đó, sự khác biệt bị tiêu trừ, sự sáng tạo bị cho là nguy hiểm và các tư tưởng bị thui chột.

Bởi vậy, không ngạc nhiên khi từ những ngày đầu Quốc Hội các thuộc địa được triệu tập, các vị quốc phụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã tranh cãi kịch liệt về việc có nên thống nhất 13 bang thuộc địa thành một liên bang hay cứ để chúng độc lập. Dù cuối cùng xu hướng Liên bang thắng thế vì nhu cầu tự vệ chung chống đế quốc Anh; nhưng sự cảnh giác ngay từ ban đầu về nguy cơ thống nhất sẽ tiêu diệt tự do là một nỗ lực thận trọng đáng kính của những con người vừa là chính trị gia, vừa là học giả của xứ sở này. Và chính những con người thận trọng lỗi lạc đó mới có thể giúp xây dựng một nền móng tự do vững chắc cho đất nước của những con người khát khao tự do, và có cách để ngăn không cho sự thống nhất lãnh thổ phát huy tác hại của nó.

Bàn đến mối ưu tư về sự đoàn kết của người Việt khi đứng trước nhiều vấn đề nan giải trong phong trào đấu tranh cho tự do và dân chủ hiện nay, rất nhiều người trong chúng ta có thể cảm thấy tự mâu thuẫn, nghi ngờ tính đa nguyên và bị dạt về xu hướng đề cao sự lãnh đạo ưu thắng của một tổ chức hoặc một lãnh tụ duy nhất; nhằm tạo nên sức mạnh cho phong trào chung. Chúng ta luôn dễ tin tưởng vào sức mạnh của cái “nhất” và cách thức “hợp”. Đó là một kiểu suy nghĩ nguy hiểm. Tôi tin rằng niềm khao khát tự do không thể đồng hành với lối suy nghĩ đó.

Tôi không ít lần nghe nhiều người than phiền về sự tồn tại quá nhiều hội nhóm cả chính trị lẫn xã hội dân sự ở hải ngoại và quốc nội; giữa các phe nhóm lại có quá nhiều khác biệt về quan điểm và phương cách làm việc… Trộm nghĩ rằng, sự đa dạng này không phải là vấn đề. Vấn đề cốt tử là các Hội nhóm này có hoạt động hiệu quả không, có chồng chéo chức năng không, có làm việc trong tinh thần trong sáng và khoan dung không… thì ít người nhắc tới.

Theo tôi, thà là có nhiều đảng phái và nhiều nhóm xã hội dân sự để khi cần thiết thì họ biết cách dàn xếp thỏa đáng và chính đáng để phối hợp hoạt động hoặc sát nhập với nhau vì giá trị chung; còn hơn là chỉ có một vài đảng nhỏ làm vệ tinh cho một đảng lớn, hoặc vài tổ chức xã hội dân sự làm bề nổi cho một lực lượng chính trị to lớn nấp phía sau! Bởi vậy, tôi không sợ sự phức tạp mà chỉ ngại sự hợp nhất gian trá.

Chúng ta không cần e ngại sự phức tạp và lộn xộn vì sự giản đơn và trật tự còn đáng ngại hơn nhiều. Tại sao chúng ta phải lo sợ sự hỗn độn khi loài người vẫn còn được định danh bằng các giá trị phổ quát? Nói rõ hơn, sự đa dạng và khác biệt về phương cách hành động không làm lu mờ được những điểm chung bất di bất dịch của chúng ta, đó là tự do và nhân quyền. Tại sao chúng ta cần quan tâm đến sự chia rẽ bề ngoài nếu chúng ta thực sự đạt được một điểm chung lớn bên trong đó là sự lương thiện? Rõ hơn, chúng ta thực sự không cần phải hô hào đoàn kết mà vẫn đạt được sự cộng tác hữu ích nếu tất cả các phe nhóm thực sự nỗ lực để phục vụ một đối tượng duy nhất là con người.

Tôi thiết nghĩ rằng bản chất của sự đoàn kết hay thống nhất không nhất thiết là tích cực hay tiêu cực. Sự hợp nhất nằm trong ý nghĩa của hai khái niệm này không được mặc định là tốt. Quả thật, sự tốt đẹp hay xấu xa không nằm sẵn trong nội hàm của hai từ này; mà phụ thuộc vào động cơ thúc đẩy. Hay nói chính xác hơn, vấn đề đặt ra là đoàn kết hay thống nhất để làm gì và để đạt được những hậu quả nào.

Tất nhiên, chúng ta nhìn thấy việc bức tường Berlin sụp đổ và hai nửa nước Đức được thống nhất để cùng tiến về thế giới dân chủ tự do và thịnh vượng là điều tốt đẹp. Nhưng việc những người cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Việt Nam cộng hòa bằng bạo lực, thống nhất hai miền để đưa cả nước tiến vào con đường độc tài, lạc hậu và Hán nô là vô cùng tồi tệ. Đây là minh chứng là tính hai mặt của sự thống nhất.

Cũng với cách thức đó, chúng ta sẽ ca ngợi nỗ lực đoàn kết của các lực lượng đấu tranh để dân chủ hóa đất nước và tạo nên tiền đồ tự do thịnh vượng cho đất nước. Nhưng sẽ thật kinh khủng nếu lời kêu gọi đoàn kết của chúng ta được đáp lại bằng những hành động thỏa hiệp và “đoàn kết” giữa các lực lượng nào đó cùng mưu đồ một kế hoạch đen tối. Bởi vậy, một lần nữa xin khẳng định, đừng e sợ sự hỗn độn nếu chúng ta biết làm việc một cách thiện chí để sắp xếp lại những sự phức tạp đó. Nhưng hãy cảnh giác với sự đoàn kết “ma quỷ” của các thế lực nhằm tiếp tục đổi chác quyền lực và quyền lợi trên hạnh phúc và tự do của hơn chín mưới triệu người Việt Nam.

Tôi khá ngạc nhiên khi có nhiều trí thức Việt Nam hiện tại vẫn tôn sùng Gia Long như vị vua có công thống nhất một lãnh thổ Việt Nam rộng lớn nhất trong lịch sử. Họ quên mất rằng chính ông vua này cũng đã kết thúc một thời kỳ tuy hỗn độn nhưng có tự do và bao dung sự khác biệt; tái lập hệ thống chính trị trung ương tập quyền từ Bắc chí Nam, mở đầu cho thời kỳ “bế quan tỏa cảng” (trước đó, dưới thời các chúa Nguyễn, Việt Nam có những thương cảng sầm uất nhất trong khu vực) và phổ biến sự Hán hóa trên khắp cả nước (điều mà người dân miền Nam chưa bao giờ biết đến trước đó), đưa đất nước vào một thời kỳ lạc hậu, tạo tiền đề cho thực dân Pháp xâm lược nước ta. Chúng ta có thể thấy rõ tác hại của sự “hợp nhất” trong trường hợp này.

Còn nữa, đối với một người dân bình thường, việc được sống sung túc và tự do hay làm công dân trong một quốc gia rộng lớn cần thiết và quan trọng hơn? Tất nhiên vừa sống trên một đất nước rộng lớn, có vị thế trong khu vực vừa hưởng sự sung túc, tự do thì rất tốt đẹp. Quả thật, một đất nước rộng lớn chỉ mang đến cho người dân thường sự vinh hiển hào nhoáng giả tạo và phục vụ cho cái tôi đầy huyễn hoặc của các lãnh tụ chính trị, nó đóng góp rất ít vào phúc lợi của người dân. Nếu được chọn một, bạn muốn sống ở đất nước nhỏ bé xinh đẹp Hà Lan hay đất nước rộng lớn độc tài Tàu cộng? Qua ví dụ này, chúng ta nhận diện được tính gian trá trong luận điệu tuyên truyền về sự “thống nhất” của cộng sản Việt Nam.

Đoàn kết và thống nhất tuy khác biệt về ngữ nghĩa nhưng nó có một điểm chung là sự bao hàm ý nghĩa “hợp nhất” và “giản đơn hóa”. Bài viết này chỉ nhằm lý luận để phản bác tư duy đề cao sự hợp nhất của người Việt. Sự hợp nhất luôn tạo cho chúng ta cảm giác an toàn, vững chải giả tạo. Nhưng đừng để bị cảm giác đánh lừa. Cảm giác này không thích hợp với những người sống trong thời đại đa nguyên và tôn trọng sự khác biệt. Bởi vậy, người viết luôn đề cao sự phức tạp trong lương thiện chứ không bằng lòng với những sự giản đơn ẩn tàng nguy cơ.

Huỳnh Thục Vy

Buôn Hô, 3/12/2014

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.