Hôm nay,  

Việt Nam Phải Cách Mạng Để Tồn Tại

13/06/201400:00:00(Xem: 4499)

“Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng….” là lời kinh sám hối của Tín đồ đạo Công giáo phải học thuộc từ khi biết đọc và hiểu Giáo lý của đạo.

Đem câu này áp dụng cho hòan cảnh “trên đe dưới búa” cực kỳ nguy nan trước hiểm họa mất dần chủ quyền đất nước vào tay người Tầu phương bắc thì Việt nam cần có Cách mạng để tồn tại.

Nhưng trước khi có Cách mạng, người dân Việt Nam cần biết những nguyên nhân đưa đất nước đến hòan cảnh bi đát ngày nay.

Trước nhất, 3 nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh, nếu còn chút liêm sỉ là người Việt Nam và muốn không bị lịch sử lên án phản quốc, họ cần chứng minh mình vô tội trong các thỏa hiệp với Trung Cộng.

CHUYỆN ĐỖ MƯỜI

Người đầu tiên là Ông Đỗ Mười, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng Bí thư đảng Khoá 7 của Cộng sản Việt Nam (CSVN). Ông là người, cùng với nguyên Thủ tướng Phạn Văn Đồng khi ấy là Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương đảng (1986-1997), đã tháp tùng Tổng Bí thư đảng Khoá 6 Nguyễn Văn Linh đi phó Hội nghị bí mật ở Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên, Trung Cộng) trong hai ngày 03 và 04/09/1990. Phía Trung Cộng có Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch Nhà nước Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.

Mục đích “lúc đầu”, theo Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Ngọai giao Trần Quang Cơ thì Hội nghị Thành Đô nhằm vào hai vấn đề chính: Campuchia và vấn đề bình thường hòa quan hệ Việt-Trung.

Ngòai ra Ông Nguyễn Văn Linh còn ôm mộng sang Thành Đô để “Tranh thủ Trung Quốc, hợp tác với Trung Quốc, để bảo vệ Xã hội chủ nghĩa!”

Hồi ký Trần Quang Cơ thuật lại rằng chính ông Linh đã nói với Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Cộng tại Hà Nội, trong một cuộc gặp mặt giữa hai người hồi tháng 6/1990 rằng: “Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những người cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào chủ nghĩa xã hội. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội biến mất.”

Nhưng tại Thành Đô, phía Trung Cộng đã hòan toàn chủ động và lái Việt Nam đi theo ý muốn của Bắc Kinh để ép phe Heng Samrin-Hun Sen thân Việt Nam phải chấp nhận giải pháp chính trị “hòa hợp dân tộc” với phe bại trận Khmer đỏ thân Trung Cộng, khi ấy đã phải dạt về biên giới Thái Lan.

Và đây cũng là cái giá Việt Nam phải trả để được bình thường hoá với Trung Cộng, sau 11 năm Trung Cộng đem 600,000 quân tấn công 6 Tỉnh Việt Nam dọc biên giới hai nước năm 1979.

Tuy nhiên, phe Heng Samrin - Hun Sen sau đó đã quay ra hận thù Việt Nam vì Hà Nội đã xen vào “chyện nội bộ của người Kampuchea”.

Ông Trần Quang Cơ viết về thất bại chính trị này của Việt Nam trong Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ”: “Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.”

Ông Cơ còn vạch trần “giấc mơ” hão huyền của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mong được hợp tác với Trung Cộng để bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, sau khi khối Liên bang Sô viết tan rã: “Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù hợp với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan hệ với Liên Xô và Campuchia.

Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.”

Về chuyện này, ông Trần Quang Cơ còn bổ sung thêm phát biểu của Ngọai trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại phiên họp kiểm điểm của Bộ Chính trị, sau Hội nghị Thành Đô: “Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”

Ông Võ Văn Kiệt bổ túc thêm: “ Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (Phạm Văn Đồng) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đặng Tiểu Bình, người thực sự nắm quyền ở Trung Cộng thời gian này) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”

Hồi ký của nguyên Thứ trưởng Ngọai giao Trần Quang Cơ kết luận: “Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “giải pháp Đỏ”.

Ngoài những việc bất lợi về mặt ngọai giao cho Việt Nam của Hội nghị Thành Đô do ông Trần Quang Cơ tiết lộ, còn có Văn kiện chính trị quan trọng hơn được gọi là “Kỷ yếu của hội nghị” do chính Lý Bằng sọan để cho hai Tổng Bí thư và Thủ tướng hai nước cùng ký nhưng không được ông Cơ viết ra, có thể ông không được biết hay biết mà bị cấm.

Hai ông Linh và Đồng đã qua đời nên bây giờ chỉ còn lại ông Đỗ Mười là người biết rõ đầu đuôi câu chuyện ở Thành Đô, nhất là hai bên đã đồng ý với nhau và cam kết với nhau những gì trong “Kỷ yếu hội nghị” 1990.

Cho đến nay, 24 năm sau Hội nghị Thành Đô, cả hai nuớc Việt-Trung đều kín miệng về nội dung “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng theo tiết lộ của Cụ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1987 thì phía Trung Cộng đã buộc Việt Nam không được nhắc đến 2 vấn đề gai góc có lợi cho Trung Cộng nhưng vô cùng tai hại và hiểm độc đối với Việt Nam, đó là: 1) Chuyện Hòang Sa đã bị Trung Cộng chiếm của Việt Nam từ tháng 1/1974 và, 2) Cuộc chiến xâm lược của 600,000 quân Trung Cộng vào 6 tỉnh biên giới Việt Nam năm 1979.

Riêng chuyện quân Trung Cộng đánh chiếm đảo Gạc Ma và 7 bãi đá ngầm của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa năm 1988 dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười thì cho đến nay, Việt Nam không dám đánh đuổi quân xâm lược mà còn đang “sống chung hòa bình” ở đó như không có chuyện gì xẩy ra, dù rằng 64 lính của quân đội Việt Nam đã bị quân Trung Cộng giết chết trong cuộc chiến 1988.

Bây giờ thì lịch sử Biển Đông đã rẽ sang khúc quanh mới có lợi cho Trung Cộng khi Bắc Kinh “tự do” đặt gìan khoan tìm kiếm dầu Hải Dương 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 02/05/2014. Trung Cộng cũng đang có kế họach xây dựng một “căn cứ hải-không quân” nổi ở Trường Sa để xác nhận chủ quyền và khống chế Việt Nam và các nước có tranh chấp biển đảo với Bắc Kinh.

Như vậy, nếu ông Đỗ Mười còn là người Việt Nam yêu nước và không muốn tên mình bị lịch sử bôi đen thì hãy can đảm xác quyết với nhân dân có hay không chuyện ông đã cùng với ông Nguyễn Văn Linh và Phạm Văn Đồng cam kết với hai lãnh đạo Trung Cộng, Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng tại Hội nghị Thành Đô (Tứ Xuyên) năm 1990 rằng Việt Nam sẽ “không bao giờ nhắc đến chuyện Hòang Sa 1974 và cuộc chiến tranh biên giới 1979” ?

Trong khi chờ đợi câu trả lời, và có thể chẳng bao giờ có, của ông thì ông Đỗ Mười và tất cả lãnh đạo của đảng CSVN cần đọc lại đọan dưới đây trong Hồi ký lịch sử của ông Trần Quang Cơ:

“Ngày 5-10/11/91, sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Pari, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/79.

Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đề quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau).

Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.”

BỘ BA PHIÊU-MẠNH-TRỌNG

Trong trường hợp của nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thì ông chỉ cần trả lời với nhân dân xem ông có nhượng đất và nhượng biển cho Trung Cộng khi ký hai Hiệp định “Phân định biên giới trên đất liền” và “Phân định vịnh Bắc Bộ” trong hai năm 1999 và năm 2000 ?

Mục Nam Quan đã mất, 2/3 Thác Bản Giốc đẹp nhất và một phần Vịnh Bắc Bộ đã thuộc về Trung Cộng có phải là bằng chứng không ?

Ông Phiêu cũng cần cho dân biết có bao nhiêu cây số vuông, kể cả điểm cao 1509, hay núi Lão Sơn thuộc tỉnh Hà Giang (tên cũ là Hà Tuyên) đã nằm gọn trong tay Trung Cộng sau cuộc chiến Biền giới thứ hai từ tháng 4 năm 1984 đến tận năm 1990 ?

Đối với nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thì điều quan trọng nhất là tại sao ông đã “tự ý ký thỏa hiệp để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở vùng đất chiến lược Tây Nguyên” để bây giờ chịu thua lỗ không gỡ ra được mà còn nguy hiểm cho an ninh quốc gia ?

Ông Mạnh cũng cần phải trả lời thắc mắc tại sao ông đã để cho 90% dự án kinh tế chiến lược lọt vào các Công ty Trung Cộng và không ngăn cản các địa phương cho người Tầu thuê đất trồng rừng và xây dựng cơ sở dọc theo duyên hải trong hàng chục năm khi ông tại chức trong hai khóa đảng từ 2001 đến 2011 ?

Đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người kế vị ông Mạnh từ tháng 01/2011 cũng phải giải thích với lịch sử tại sao ông đã ra lệnh cho Công an ngăn cản, bắt giam và đàn áp thô bạo những người dân biểu tình chống Trung Cộng xâm chiếm biển đảo và giết hại ngư dân Việt Nam ở Biển Đông từ năm 2011 đến nay.

Ông Trọng cũng có trách nhiệm đã để cho Thương lái Trung Cộng tự do hoành hành và phá hoại kinh tế Việt Nam; để cho hàng hoá Trung Cộng tự do nhập lậu vào thị trường để giết các doanh nghiệp trong nước và để cho các Công ty Trung Cộng tự do đem hàng nghìn lao động phổ thông vào Việt Nam cướp việc của dân Việt ?

Ông cũng cần cho dân biết tại sao Nhà nước đã dành nhiều đặc quyền, đặc lợi cho Công ty Trung Cộng trúng thầu các dự án kinh tế quan trọng; cho các doanh nghiệp Tầu Bắc Kinh thuê đất từ 50 đến 70 năm tại các địa điểm chiến lược như Vũng Áng (Hà Tĩnh) và Cửa Việt (Qủang Trị) ?

Song song với kế họach “mở rộng lãnh thổ cho Tầu vào nhà”, ông Tổng Bí thư đảng CSVN còn để cho hàng chục nghìn dân Tầu nhập cư bất hợp pháp và lập các khu phố, vùng dân cư xen kẽ với xóm làng và thành phố Việt Nam từ Nam ra Bắc ?

Ngoài ra, trong cương vị “lãnh đạo tòan diện nhà nước và xã hội”, ông còn cấm không cho dân và cựu chiến binh tổ chức truy điệu và tưởng niệm những chiến sỹ và đồng bào Việt Nam đã hy sinh trong 3 cuộc chiến chống quân Trung Cộng xâm lược tiêu biểu nhất trong Thế kỷ 20 tại Hòang Sa (1974), Cuộc chiến biên giới 1979 và trận Trường Sa năm 1988 ?

Rồi ông cũng hành động đầy nghi ngờ khi bác yêu cầu của Quốc hội muốn Chính phủ báo cáo về tình hình Biển Đông. Giữa lúc Trung Cộng tuyên bố thành lập Thành phố Tam Sa bao gồm Hòang Sa, Trung Sa (bãi cạn scarborough có tranh chấp với Phi Luật Tân) và Trường Sa năm 2012 và nhiều ngư dân Việt Nam bị lính Trung Cộng gỉa dạng Hải giám, Kiểm ngư đánh đập tàn nhẫn, thuyền cá bị tấn công và cướp đi tài sản và ngư cụ thì ông Trọng bảo “tình hình Biển Đông không có gì mới”!

LÊ ĐỨC ANH

Cuối cùng là Đại tướng Lê Đức Anh cũng có bổn phận phải bạch hóa “hồ sơ thân Trung Cộng” của ông khi giữ Bộ trưởng Quốc Phòng trong giai đọan 16/02/1987 – 10 tháng 08/1991 và Chủ tịch Nước từ 23/09/ đến 24/09/ năm 1997.

Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của nguyên Thứ trưởng Ngọai giao Trần Quang Cơ đã nói rất rõ vai trò “khuynh loát” và “đi đêm” với các sứ gỉa Trung Cộng của ông khi Việt Nam bị Trung Cộng ép tham gia vào “giải pháp Đỏ” để tìm giải pháp chính trị cho Kampuchea.

“Giải pháp Đỏ” là kế hoạch chính trị của Trung Cộng nhằm tạo thế “liên hiệp bình đẳng” cho phe Khmer đỏ (thân Bắc Kinh) tại bàn hội nghị với phe Heng Samrin-Husen (thân Việt Nam) để thành lập Hội đồng Quốc gia Tối cao Campuchia (Supreme National Council, SNC), sau khi Việt Nam hòan tất rút quân khỏi chiến trường Kampuchea năm 1989.

Ông Lê Đức Anh đã sát cánh với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười làm theo ý muốn của Trung Cộng để, một mặt bảo đảm thế chính trị cho Khmer đỏ sau khi đã “bằng lòng không lập lại vấn đề “tội diệt chủng giết trên 1 triệu người Kampuchea” của Khmer đỏ và mặt khác giúp Trung Cộng duy trì “ảnh hưởng của họ ở Kampuchea”.

Tuy nhiên, theo quan điểm của Bộ Ngọai giao Việt Nam lúc đó thì giải pháp này bất lợi cho cả Việt Nam lẫn phe Heng Sanrin-Hun Sen nên Bộ Trưởng Ngọai giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch và Thứ trưởng Ngọai giao Trần Quang Cơ quyết liệt chống đối nhưng bất thành vì có bàn tay của Lê Đức Anh thúc sau lưng hai ông Linh và Mười.

Vì lập trường “chống giải pháp Đỏ” của Trung Cộng mà Ngọai trượng Nguyễn Cơ Thạch không được tham dự Hội nghị Thành Đô. Và cũng tại Thành Đô, phiá Trung Cộng đã công khai yêu cầu phiá Việt Nam lọai ông Thạch ra khỏi Bộ Chính trị và Bộ Ngọai giao, theo nhiều bài viết không hề bị cải chính của một số cựu viên chức cap cấp đảng, trong đó có Cụ nguyên đại sứ Nguyễn Trộng Vĩnh.

Qủa nhiên tại Đại hội đảng kỳ VII tháng 6/1991, ông Nguyễn Cơ Thạch đã bị phe Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười-Lê Đức Anh lọai ra khỏi Bộ Chính trị và mất luôn chức Bộ trưởng Ngọai giao, theo yêu cầu của Trung Cộng !

Sau khi thay Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười đã mau mắn chứng minh sự “tuân phục Bắc Kinh” của mình, theo Hồi ký của ông Trần Quang Cơ ghi lại: “Ngày 9/7/91, vừa được bầu làm Tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử Đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước.

Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91 – Bộ Ngoại giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai nước.

Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8.

Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử Đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp Đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp Thứ trưởng Ngoại giao…

Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp Đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “Đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.

Hồng Hà lúc đó là Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một Thứ trưởng Ngoại giao là uỷ viên Trung ương đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.”

Thế rồi chuyện “hạ mình xin lỗi” Trung Cộng của Lê Đức Anh đã diễn ra, theo ông Trần Quang Cơ kể tiếp: “Ngày 28/7/91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương mới..., Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có Ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.

Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29/7 và tối 31/7 để tạ lỗi (?).

Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đã nói:

“Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”.

Chuyện “không hay ho lắm” hay “là một việc đau lòng” chính là cuộc va chạm bằng ngôn ngữ gay gắt mà trước khi bị mất chức, Ngọai trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã “dạy cho Đặc phái viên, Trưởng đòan đàm phán Từ Đôn Chính một bài học” khi họ Từ sang Hà Nội ép ông Thạch chấp nhận “giải pháp Đỏ” ngồi lên đầu đồng minh Heng Samrin-Hunsen.

Như vậy thì chuyện Lãnh đạo CSVN nào thân Tầu, ai qụy lụy Tầu và ai sẵn sàng thỏa hiệp với Bắc Kinh để được tại chức an thân đã rõ chưa, hay cần Trung Cộng đặt thêm vài chục giàn khoan cỡ HD-981 ở Trường Sa và Vịnh Bắc Bộ, hay cạnh đảo Lý Sơn, hoặc gần đảo Phú Quốc thì đảng CSVN mới “sáng mắt sáng lòng” ?

Và nếu tất cả các ông Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và Lê Đức Anh không trả lời được những thắc mắc trong bài này thì liệu Việt Nam có cần một Cuộc Cách Mạng để giữ nước ?

Phạm Trần
(06/014)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.