I - Vào khỏang tháng 8 năm 1954, thì sinh viên Đại học Hanoi bắt đầu
lần lượt được di chuyển vào miền Nam. Ngòai một số ở chung với gia
đình, còn lại chừng vài trăm sinh viên được cho cư trú tại trường Nữ
Trung học Gia Long, vì nơi đây có khu nội trú với đày đủ tiện nghi về
phòng ăn, phòng ngủ, nhà vệ sinhv.v... Nhưng vào tháng 11, thì lớp
sinh viên di cư chúng tôi phải dọn ra khỏi trường Gia Long để trả lại
cơ sở cho các học sinh đi học trở lại.
Chúng tôi được cấp phát những chiếc tent nhà binh và đi cắm thành
những căn lều trên khu đất trống gần Tòa án mà xưa kia gọi là Khám
Lớn Saigon. Mỗi căn lều có thể chứa được 8 người được phân bố nằm
trên 2 bục gỗ phía trong kê sát với mái lều, với khỏang trống ở
giữa được dành làm lối đi ra vào từ hai phía cửa lều. Vào lúc chiều
tối, thì trời mát dịu nên chúng tôi có thể học bài rồi nghỉ ngơi
thỏai mái. Nhưng vào giấc trưa, trong căn lều khí hậu nóng hừng hực,
nên thường chúng tôi phải ra đi tránh nắng dưới các tàn cây xung quanh
những cơ quan hành chánh lân cận – hoặc nếu ở lại trong lều, thì
phải giải chiếu nằm sát đất nơi gầm bục gỗ. Tuy là khu lều xây dựng
theo lối dã chiến của quân đội, nhưng tương đối cũng có đủ tiện nghi
về điện nước, nhà tắm, nhà vệ sinh v.v… cho các trại viên dễ đến
trên 200 mạng người.
Tôi được sắp xếp ở chung với 7 anh bạn khác trong một căn lều ở cuối
dãy B, sát với dãy lều dành cho sinh viên đã có gia đình riêng. Trong
số này có 4 anh học Y khoa, đó là các anh Chu Bá Bằng, Phùng Quốc
Anh, Phạm Ngọc Tùng và Nguyễn Văn Thiệu. Còn lại là anh Bùi Đình Nam
học Dược, anh Nguyễn Xuân Nghiên học Khoa học, rồi đến anh Nguyễn Ngọc
Nhung và tôi Đòan Thanh Liêm học Luật.
Mỗi ngày trại viên chúng tôi được cấp phát hai bữa ăn do nhà thầu đem
đến cho tận mỗi lều, để anh em chúng tôi cùng ăn chung với nhau vào
các buổi trưa và chiều. Và hàng tháng, mỗi người còn được lãnh một
số tiền nhỏ để chi tiêu lặt vặt từ nơi văn phòng của Viện Đại Học
trên đường Trần Quý Cáp.
Chúng tôi chỉ phải tạm trú trong khu lều vải này chừng 5 tháng và
kể từ tháng 3 năm 1955 sau khi ăn Tết Ất Mùi, thì tất cả được chuyển
đến cư ngụ tại khu Đại Học Xá trên đường Minh Mạng Chợ Lớn. Thành ra
sinh viên di cư chúng tôi là những người đầu tiên được cho cư ngụ tại
cơ sở mới tinh này mà chỉ vừa mới xây cất xong. Tại đây, thì chúng
tôi cứ 6 sinh viên được phân bố cho cư ngụ tại một phòng và mỗi người
đều được cung ứng đủ thứ tiện nghi về giường ngủ, tủ đựng sách vở,
quần áo… Và 8 anh em trong lều chúng tôi nói trên thì lại phải chia
tay nhau để mỗi người đi nhận phòng ốc khác nhau trong khu Đại Học
Xá.
Đại khái là trong thời gian khỏang 7 – 8 tháng kể từ khi vừa từ Hanoi
đặt chân đến Saigon, thì nhóm sinh viên di cư chúng tôi đã phải di
chuyển đổi chỗ ở liên tục đến 2 lần – từ trường Gia Long ra khu lều ở
Khám Lớn, rồi lại từ khu lều Khám Lớn đến khu Đại Học Xá Minh
Mạng. Nhưng vì còn đang ở vào độ tuổi đôi mươi, tuổi trẻ chúng tôi
mau dễ thích nghi với môi trường xã hội mới lạ ở Saigon. Và cuối
cùng chẳng bao lâu sau, lớp sinh viên di cư đã ổn định được cuộc sống
và hòa nhập vào với nền nếp sinh họat của đông đảo bà con ở miền
đất thanh bình thịnh vượng của miền Nam Việt nam.
* II - Năm Giáp Ngọ 2014 này là đúng 60 năm kể từ ngày bắt đầu có
cuộc Di Cư của gần một triệu đồng bào từ miền Bắc tự động rời bỏ
nhà cửa ruộng vườn lại để ra đi vào miền Nam hầu tránh thóat khỏi
chế độ độc tài hà khắc của người cộng sản. Nhân dịp này, tôi xin
ghi lại một vài kỷ niệm vui vui ngộ nghĩnh giữa mấy anh em cùng chung
sống với nhau dưới một mái lều vải hồi cuối năm 1954 sang đầu năm
1955 ấy.
1 - Đầu tiên là mấy anh em trong lều chúng tôi được anh Thiệu đãi một
chầu đi ăn Thịt Bò Bảy Món tại nhà hàng Pagolac ở Chơ lớn – để chia
vui với anh trong dịp anh thi đậu lên lớp tại Đại học Y khoa. Đây là
lần đầu tiên tôi được thưởng thức một bữa ăn thật đặc sắc mới lạ
này tại đất Saigon, nên tôi ăn thật ngon miệng và cứ nhớ hòai. Anh
Thiệu có bộ tóc rậm được chải ép rất kỹ lưỡng, khuôn mặt bàu tròn
coi bộ dáng phúc hậu mà lúc nào cũng diện áo quần bảnh bao tươm
tất. Anh được các bạn đặt tên cho là “Thiệu Cốp” – vì coi giống như
ông Malenkov trong hàng ngũ lãnh đạo tam đầu chế Khruschev-Bulganin-
Malenkov ở Liên Xô thời kỳ hậu-Stalin lúc ấy. Sau này vào giữa thập
niên 1960, anh Thiệu là Bác sĩ giữ chức vụ Tổng Giám Đốc Cơ Quan Bài
Trừ Sốt Rét.
2 - Tiếp theo là vụ ăn Tết Ất Mùi vào đầu năm 1955, anh Bùi Đình Nam
ra tay nấu riêng cho anh em cả lều thưởng thức cái món bí tết thật
đặc sắc. Chúng tôi được uống cả thứ rượu chát hiệu Beaujolais của
Pháp. Anh Nam lúc đó đã tỏ ra là người rất tháo vát và sau này anh
đứng ra làm Quản lý Nhà ăn ở Đại Học Xá. Hồi đó anh Nam rất thân
thiết với người bạn học cùng lớp ở trường Dược, đó là anh Tô Đồng
về sau làm Khoa trưởng tại trường này vào hồi đầu thập niên 1970.
Còn chính anh Nam sau này là một tỷ phú điều hành cơ sở sản xuất
dược phẩm danh tiếng ở Saigon hồi giữa thập niên 1960, đó là Hãng
thuốc Tenamyd có trụ sở chính ở Thủ Đức gần với xa lộ Biên Hòa.
3 - Đó là vài chuyện vui của riêng nhóm 8 anh em trong căn lều nhỏ
chúng tôi. Còn đối với tập thể Đòan Sinh Viên Di Cư, thì chúng tôi
đồng lòng nhất trí với nhau để bàu ra một Ban Chấp Hành để điều
hành mọi công việc thường ngày liên hệ đến sinh họat của tập thể.
Người Chủ tịch đầu tiên là anh Phan Văn Đương học Y khoa, người Chủ
tịch kế tiếp là anh Trần Thanh Hiệp học Luật.
Vào dịp Tết Ất Mùi đầu năm 1955, lúc còn cư ngụ tại Khu Lều trên
nền đất của Khám Lớn cũ, thì Ban Chấp Hành do anh Hiệp điều động
có cho xuất bản một tờ Đặc San lấy tên là Lửa Việt với chủ đề là
“Xuân Chuyển Hướng”. Đặc San này có nhiều bài vở thật phong phú đặc
sắc với những cây viết sau này nổi tiếng với Tạp chí Sáng Tạo. Đó
là các tác giả như Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ Tế, Dõan Quốc Sỹ, Mai
Thảo, Thanh Tâm Tuyền v.v…
Nói chung, thì cái khí thế của tập thể sinh viên di cư chúng tôi lúc
đó thật là hăng say nhiệt thành với chính nghĩa quốc gia dân tộc. Vì
thế mà có sự đụng chạm căng thẳng trong mối liên hệ với một số nhỏ
sinh viên miền Nam mà vẫn còn ngả theo xu hướng của phong trào Việt
Minh cộng sản ngay từ năm 1945 – 46. Chuyện này có nhiều chi tiết sôi
nổi gay cấn, tôi xin dành cho những anh em có sự hiểu biết và kinh
nghiệm cụ thể trực tiếp trình bày – điển hình như anh Trần Thanh
Hiệp – thì người đọc mới có thể hiểu biết rõ ràng hơn về khía
cạnh chính trị của công cuộc Di Cư trong khung cảnh cuộc chiến tranh
Quốc Cộng vào thời kỳ thập niên 1950 thuở đó.
* III – Trở lại với chuyện riêng tư của mỗi một anh em sống chung trong
căn lều vải nói trên, tôi xin ghi thêm một số chi tiết mà mình thu
thập được cho đến gần đây.
1 - Trước hết là trường hợp của anh Nguyễn Xuân Nghiên. Anh Nghiên sau
này trở thành một giáo sư chuyên dậy về môn Lý Hóa rất thành công ở
Saigon. Cặp bài trùng dậy Tóan-Lý-Hóa “Nguyễn Văn Phú – Nguyễn Xuân
Nghiên” đã thu hút được biết bao nhiêu học sinh theo học tại các lớp
luyện thi bằng Tú Tài I suốt các thập niên 1960 – 70. Nhưng tiếc thay,
anh Nghiên đã lìa đời do tai nạn lưu thông trên xa lộ vào năm 1977. Tôi
có đến viếng linh cữu của anh đặt tại tư gia mà xưa kia cũng là cơ
sở của Trường Phục Hưng thuộc quyền sở hữu của gia đình anh nữa.
2 - Còn anh Bác sĩ Nguyễn Văn Thiệu, thì sau khi tôi qua định cư ở Mỹ
năm 1996, tôi cũng đã vài lần gặp lại anh cùng với bà xã là chị
Dược sĩ Tuyết Bích. Nhưng sau đó mấy năm, thì anh Thiệu cũng đã ra đi
từ giã mọi người tại miền Nam California. Như vậy, là đã có hai người
trong nhóm ở chung lều vải năm 1954 đã ra đi vĩnh viễn – mà tôi được
biết đích xác.
3 - Người duy nhất trong số các bạn mà tôi còn hay gặp gỡ trên đất
Mỹ, thì đó là anh Bác sĩ Chu Bá Bằng hiện định cư ở thành phố Houston
Texas. Anh Bằng hồi trước 1975 đã làm Giám đốc Viện Bài Lao Hồng
Bàng ở Saigon. Qua Mỷ, anh tiếp tục hành nghề bác sĩ tại Houston và
các con của anh đều rất thành công, trong đó có mấy cháu tiếp nối
cái nghề thày thuốc của anh. Vào năm 2010 - 2011, tôi đã có dịp đến
sinh sống tại nhà anh chị Bằng & Ánh trong ít ngày để mà tha hồ
hàn huyên tâm sự.
4 - Còn về anh Dược sĩ Bùi Đình Nam, thì anh Bằng cho biết là từ
mấy năm nay anh Nam chuyển từ Canada về mở hãng thuốc ở Việt nam và
nghe có bạn cho biết các con của anh cũng khá thành công trong việc
kinh doanh về dược phẩm.
5 - Có hai người nữa cũng làm Bác sĩ, đó là các anh Phùng Quốc Anh
và Phạm Ngọc Tùng, mà theo anh Bằng cho biết thì anh Anh định cư ở
Pháp, còn anh Tùng thì ở Mỹ. Nhưng riêng tôi, thì đã từ lâu tôi chưa
có dịp gặp lại hai anh bạn này.
6 - Người duy nhất mà anh Bằng cũng như tôi đều không biết tung tích sau
hồi chia tay nhau vào năm 1955, đó là anh Nguyễn Ngọc Nhung. Anh Nhung
có lớp da ngăm đen với cặp mắt lõm sâu tựa như người lai Ấn độ. Hồi
đó anh theo học lớp Năng Lực Luật Khoa ở trường Luật (Capacité de
Droit) – lớp này dành riêng cho những người theo học mà không cần phải
có bằng Tú Tài.
7 - Sau cùng là chuyện của bản thân tôi là người viết bài này, thì
tôi hành nghề luật sư tại Saigon trước năm 1975, rồi sau đó là một tù
nhân chính trị một thời gian. Hiện tôi cùng gia đình định cư tại miền
Nam California. Năm nay đã vào tuổi bát tuần, tôi hiện đang sống an vui
với cảnh gia đình xum họp đầm ấm và gặp gỡ hàn huyên với đông đảo
bạn bè.
* Bài Ghi Nhận này được viết ra để hưởng ứng góp một phần nhỏ vào
với chủ đề “ Kỷ Niệm 60 Năm Cuộc Di Cư năm 1954” (1954 – 2014) trong Đặc
San Xuân Giáp Ngọ do Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trường
Bưởi – Chu Văn An chủ xướng. Tôi hy vọng sẽ có nhiều bạn đồng môn
khác cũng đóng góp cho tờ Đặc San này thêm phần phong phú khởi sắc
bội phần hơn nữa vậy./
Costa Mesa California, Ngày Mồng Năm Tết Giáp Ngọ 2014
Đoàn Thanh Liêm CVA 54.