Bạn về thăm Sài Gòn, khi vào Chợ Lớn, hay bước tới tỉnh Bình Dương... trong mùa
Tết tất nhiên sẽ gặp múa lân-sư-rồng. Ngắn gọn, đồng bào mình gọi là múa lân.
Múa lân - sư - rồng là một nghệ thuật trình diễn cho mùa Tết... tại Việt Nam, đặc
biệt là tại Sài Gòn, nơi có đông người gốc Hoa.
Trạng Tự Điển Bách Khoa Wikipedia ghi nhận về nghệ thuật truyền thống như sau.
Múa lân-sư-rồng là một môn nghệ thuật múa dân gian đường phố có nguồn gốc từ
Trung Quốc, thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên
Đán và Tết Trung Thu, vì ba con thú này tượng trưng cho thịnh vượng, phát đạt,
hạnh phúc, hanh thông...
Múa Lân - Sư - Rồng không những là nghệ thuật trong dân gian mà còn là sự tranh
tài với nhau giữa các đội múa. Tùy theo không gian rộng hay hẹp, tùy theo ý
nghĩa của dịp lễ hội, đội Lân-Sư-Rồng biểu diễn từng bài, từng cách múa cho phù
hợp. Có thể phối hợp múa lân với sư, múa lân với rồng hoặc phối hợp cả ba thể
loại với nhau.
Hình ảnh múa lân, trống...
Trong màn trình diễn múa lân, sư, rồng, không thể thiếu Ông Địa, một người bụng
phệ (do độn vải) mặc áo dài đen, tay cầm quạt giấy to phe phẩy, mang mặt nạ ông
địa đầu hói tròn cười toe toét đi theo giỡn lân, giỡn khách xem múa hoặc mua
vui cho gia chủ. Ông Địa được cho là hiện thân của Đức Di Lặc, một vị Phật lúc
nào cũng tươi vui hiền lành. Truyền thuyết kể rằng Đức Di Lặc đã hóa thân thành
người và chế ngự được một quái vật (con lân) từ dưới biển lên bờ phá hoại. Đức
Di Lặc hóa thân thành người, gọi là ông Địa, lấy cỏ linh chi trên núi cho quái
vật ăn và hàng phục được nó, biến nó thành con thú ăn thực vật. Từ đó, mỗi năm
ông Địa lại dẫn nó xuống núi chúc Tết mọi người, chứng tỏ quái thú đã thành thú
lành, cái ác trở thành cái thiện. Ông Địa và con lân đi đến đâu là giáng phúc tới
đó nên nhà nào cũng hoan hỉ treo rau xanh và giấy đỏ đón chào. Sau này, người
có tiền thường treo giải bằng tiền buộc trong một miếng vải đỏ, treo cùng bắp cải
hoặc rau xanh. Lân phải trèo lên cao lấy bằng được "thức ăn" này. Tất
nhiên, ông Địa không cùng trèo với Lân mà chỉ cùng lân múa, phe phẩy chiếc quạt
to, ru lân ngủ hoặc đánh thức lân dậy. Cảnh ông Địa vuốt ve lân và lân mơn trớn
ông Địa, thể hiện được tình cảm và sự hòa hợp sâu sắc giữa loài vật và loài người
trong một bầu không khí thanh bình, hoan lạc.
Ở Việt Nam và Trung Quốc vào dịp Tết Trung Thu có tục múa lân. Ở Miền Bắc Việt
Nam và ở Trung Quốc thường gọi là múa sư tử mặc dù sư tử thì không có sừng. Tuy
nhiên, các ghi chú bằng Chữ Nôm trên các bức tranh “Cóc Múa Lân” thuộc dòng
Tranh Đông Hồ lại ghi là “Phụng Lân”.
Hình ảnh múa lân, trống... Lân có hai loại: loại có sừng và không sừng.
Lân không sừng giống hổ là biểu tượng của tháng giêng. Đầu lân không sừng dùng
để múa, thường dính vào sau gáy một miếng vải đỏ, viết chữ Vương lớn và đậm
nét, mình lân có vòng đen.
Lân có sừng chỉ có một sừng chính giữa nên còn gọi là kỳ lân, đầu tròn lớn, màu
thân giống màu đầu lân, hay được sử dụng để múa nhất.
Lân chỉ chế tạo cái đầu thật công phu, còn mình là vải thêu, viền rất khéo. Có
loại lân đặc biệt, nửa giống lân, nửa giống rồng, nhưng ít xuất hiện trong các
buổi diễn.
Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu
bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một
người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có trống thanh la, não
bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân và quan trọng nhất
không thể thiếu đó là ông Địa. Thường đội lân đánh trống vang xóm và nhà nào có
treo thưởng thì đội lân sẽ đến múa chúc vui, tiền thưởng thường treo trên cao,
có khi buộc trên cành tre cao, đội lân sẽ đôn người lên cho lân há miệng ngoạm
lấy (có khi làm thang là một cột thép dựng đứng để lân leo). Thường phần thưởng
càng lớn thì treo càng cao, đội lân càng có nghề càng thích phần thưởng treo
cao, xem như một thách thức các đội lân khác, đồng thời qua đó chứng tỏ tài nghệ
của đội để thu hút các gia chủ khác. Nhưng trong nhà có người già thì phần thưởng
lại được treo thấp dù có giá trị cao, chắc tránh cho lân gặp phải nguy hiểm xem
như gia chủ để phước. Ông địa phải vào nhà vái chào người già, gia chủ, sau đến
giỡn chơi hoặc làm hề cho trẻ em vui, nếu gia chủ tỏ ý muốn mời thì đoàn lân sẽ
vào, sau khi lân ngậm được tiền, lân gục gặc đầu cảm tạ thì ông địa lại vái
chào cảm ơn gia chủ trước khi đoàn lân qua nhà khác.
Hình ảnh múa lân, trống... Có nhiều kiểu múa lân.
"Độc chiếm ngao đầu" - Một con lân biểu diễn, thể hiện tài tả xung hữu
đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng
cho cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng.
"Song hỉ" - Hai con lân cùng biểu diễn, thể hiện niềm hân hoan khoan
khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm
dương tương hợp.
"Tam Tinh" - Ba con lân hợp múa với ba màu vàng, đỏ, đen, thể hiện những
điều cầu nguyện của mọi người đạt được điều lành, ba điều tốt là Phúc, Lộc, Thọ.
"Tam Anh" - Ba con lân cùng múa, diễn tả Lưu Bị, Quan Vũ và Trương
Phi vừa hùng dũng, vừa có chí lớn, vừa thương yêu, gắn bó với nhau hơn cả anh
em ruột thịt cho đến chết.
"Tứ Quý hưng long" - Bốn con lân cùng múa, gồm bốn đầu lân trắng,
vàng, đỏ, đen (hoặc xanh), tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương, bốn hiện tượng
trong trời đất, diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc.
Hình ảnh múa lân, trống... Múa sư tử
Múa sư tử thì khác múa lân, người múa núp kín thân mình trong bụng sư tử giả và
sư tử thì không có sừng. Một tiết mục múa sư của người Hoa gồm 4 người: 2 người
múa, 1 người đánh trống, 1 người cầm quả cầu. Trống trong múa Sư được đánh theo
nhịp khác với múa Lân, người ta gọi nhịp trống trong múa Sư là nhịp trống Bắc
Kinh.
Hình ảnh múa lân, trống... Múa rồng
Múa rồng của người Hoa xuất hiện muộn hơn múa lân và muá sư. Trước khi có điệu
múa rồng còn có điệu múa loan hoàng và phượng hoàng nhưng ít phổ biến bằng
(loan là mái, phượng là trống). Lúc đầu múa Rồng chỉ xuất hiện trong tết Nguyên
Tiêu và các dịp lễ hội sau vụ thu hoạch mùa thu. Múa Rồng xuất hiện trong người
Hoa ở Việt Nam vào khoảng những năm 1944-1945 do ông Trần Bồi, một chủ cơ sở sản
xuất xà bông Trung Nam ở Sa Đéc, vốn là nguồn gốc Phước Châu (Phúc Kiến), nơi
được coi là cái nôi của nghệ thuật múa rồng, tổ chức đội múa từ các thanh niên
công nhân trong xưởng của ông. Múa rồng có rất nhiều điệu khác nhau, người ta
cho rằng có đến hơn 30 điệu. Rồng được chia thành ba loại:
* Rồng tơ được chế tạo bằng vải gắn chặt vào cây cứng để múa,
* Rồng tròn được làm bằng giấy cứng, có bụng tròn và dài,
* Rồng cứng chỉ dùng để rước, khiêng, chứ không để biểu diễn.
Múa lân hoặc Sư chỉ cần hai người, nhưng múa Rồng thì phải có nhiều người tập rất
công phu để thể hiện được các động tác đồng bộ khi rồng uốn khúc, rồng phóng tới,
rồng đảo lại. Múa rồng cần ít nhất 6 người, hoặc nhiều cũng đến 20-30 người
cùng điều khiển con rồng phô diễn thần oai.
Ở Thành phố Sài Gòn có nhiều đội múa lân sư rồng, gồm có các đội nổi tiếng lâu
năm như: Phúc Kiến, Nhơn Nghĩa (người Quảng Đông), Ninh Giang (người Hẹ), v.v.
Người Quảng Đông sở trường múa lân còn gọi là Nam Sư; người Triều Châu sở trường
múa sư còn gọi là Bắc Sư; người Phúc Kiến sở trường múa rồng. Và còn nhiều hội
quán lân sư rồng ở các quận, huyện khác. Hoạt động lân sư rồng được duy trì và
phát triển đều đặn hằng năm.