Hôm nay,  

Nhạc Trần Duy Đức: Buồn Như Khúc Đàn Tiền Kiếp

05/12/201300:00:00(Xem: 4601)
Phan Tấn Hải
(LTS: Chiều Nhạc Trần Duy Đức sẽ trình diễn các ca khúc phổ thơ Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Mai Thảo, Du Tử Lê, Ngô Tịnh Yên, Cẩm Vân, Nguyễn Dũng Tiến, Hà Nguyên Du, Nguyễn Nam An, Trần Thiện Hiệp. Thứ Bảy 7-12-2012 từ 7:30PM-10:30PM. Tại Phòng sinh hoạt Nhật báo Người Việt. Vào cửa tự do. Bài này viết năm 2011, đăng lại để trân trọng gửi lời mời quý độc giả tham dự.)

Trần Duy Đức trước tiên là một nghệ sĩ, một người sống lãng đãng, y hệt như không bám rễ vào mặt đất này. Đó là cảm nhận từ những ngày đầu tiên tôi biết Trần Duy Đức. Và suy nghĩ đó cũng vẫn giữ cả nhiều năm sau, khi tôi nghe nhạc của anh nhiều hơn, và cũng quen với rất nhiều những người bạn của anh -- ở địa cầu này, ở Quận Cam này, ở một cõi trần gian hoặc là không thể hiểu, hoặc là sẽ hiểu có thể rất là nhầm lẫn.

Trần Duy Đức là một nhạc sĩ, một người sáng tác nhạc. Cũng như rất nhiều nhạc sĩ lưu vong trên cõi đời này, Trần Duy Đức không sống bằng nghề nhạc. Nhưng anh say mê nhạc, và gắn bó với âm nhạc theo kiểu riêng, một kiểu độc đáo rất riêng biệt.

Mỗi người đều có một định mệnh. Hay nếu bạn muốn, theo một cách giải thích khác, thì gọi là nghiệp. Nhạc của Trần Duy Đức rất là buồn, một vẻ đẹp của nỗi buồn cổ kính, rất xưa cổ và rất quý tộc. Y hệt như người đứng ngoài thế giới nàỳ, hay đứng từ đỉnh núi chiêm ngắm cuộc đời, và rồi nhấc đàn lên, sáng tác.

Bạn có thể thấy ở một đối nghịch khác: nhạc sĩ lưu vong Nguyễn Đức Quang cũng không sống bằng nghề nhạc, nhưng âm nhạc của người nhạc sĩ quá cố này rất mực gắn bó với cuộc đời, tới mức có thể gọi là dấn thân, cả lời và nhạc đều rất nồng nhiệt với đời sống.

Bởi vậy, điều lạ là hai nhạc sĩ có hai dòng nhạc trái nghịch này là có giao tình thân thiết – họ là hai nhạc sĩ của hai thế hệ cách biệt, và của cả hai dòng nhạc rất là dị biệt, và họ đã từng thân thiết chia sẻ với nhau kinh nghiệm, thí dụ như việc sử dụng nhu liệu ghi nốt nhạc, và cũng đã chia sẻ các quan tâm với nhau.

Có cách nào để có thể nói gọn một lời về nhạc Trần Duy Đức" Thực ra, không lời nào nói tóm gọn được, dù chúng ta có muốn viết theo kiểu lý lịch vài dòng. Bởi vì, mỗi ca khúc của Trần Duy Đức đều hiện diện kiểu độc đáo riêng.

Nhưng cảm xúc đầu tiên, và là một cảm xúc bạn có thể giữ hoài khi nghe nhạc Trần Duy Đức: đó là một nỗi buồn, rất là buồn, buồn như tiếng mưa rơi, buồn như tiếng nhạc cổ Nhật Bản (thí dụ, khi bạn nghe ca khúc Khúc Mưa Sầu), buồn như thương tiếc một người tình đã xa (ca khúc: Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời), buồn như khi chợt thấy mình cô đơn (ca khúc: Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người, buồn như lời nhắn gởi tới người (ca khúc: Nếu Có Yêu Tôi), buồn như mối tình rơi theo nắng tan nhanh (ca khúc: Tan Theo Ngày Nắng Vọi), kể cả buồn như một nhà thơ nhìn thấy mình sắp bước vào một cõi lạ thật xa (ca khúc: Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, phổ thơ Mai Thảo), và tương tự với tất cả các ca khúc khác...

Chúng ta không thấy bao nhiêu niềm vui trong nhạc Trần Duy Đức. Đúng ra, có thể nói rằng, niềm vui đó phải là niềm vui rất ẩn kín, một niềm vui khi “ngộ” ra tiếng nhạc lòng mình... và rồi nhạc sĩ chỉ ghi xuống giấy, chỉ vẽ lại những nốt nhạc lạ trong lòng mình.

Trần Duy Đức là như thế. Tiếng nhạc gầy và buồn như con người.

Trần Duy Đức đã phổ thơ của nhiều thi sĩ, trong đó có thơ Du Tử Lê, Mai Thảo, Ngô Tịnh Yên, Nguyễn Dũng Tiến... Nhưng một ca khúc thời thơ trẻ ở quê nhà của anh đã như dường ghi một dấu ấn tiền định cho nét nhạc sau này: Đó là bài Khúc Mưa Sầu, lời và nhạc của Trần Duy Đức. Bài này anh sáng tác khi đồn trú ở Pleiku năm 1971, lúc đó anh là một chiến binh trẻ.
tran-duy-duc-khanhly-large-resized
Khánh Ly và Trần Duy Đức (ảnh Hoàng Khai Nhan).

Hãy nghe những dòng đầu của ca khúc này:

“Nằm nghe ngày tháng rơi đều
ngoài hiên mưa đọng bọt bèo
Tình nằm trong nấm mộ rêu
Trở mình nghe những quạnh hiu
Ôi nằm nghe ngoài hiên giọt rớt bên thềm
nằm yên ta gọi tình quên...”


Và rồi những dòng cuối ca khúc này:

“Cầm tay một cánh hoa tàn
Hồn xưa chưa trở về ngàn
Bàng hoàng nghe những giọt tan
Giọt hồn xa tiếng thở than
Ôi về đâu hồn xưa một cánh hoa tàn
Lặng yên ta gọi hồn hoang.”


Đó là những nốt nhạc nghe như tiếng mưa buồn giữa núi rừng Pleiku.

Và rồi những tiếng mưa đó đã đi theo tận cùng cuộc đời với anh. Trong rất nhiều ca khúc khác, chúng ta cũng thấy lại hình ảnh mưa buồn này, tuy là bối cảnh mới và cảm xúc mới.

Thí dụ, ca khúc Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương, với lời: “Ngoài trời vẫn còn mưa. Người nằm dưới mộ sâu. Ôi thiên thu phôi phai hình hài...”

Hay như, ca khúc Dòng Suối Trăm Năm, với lời: “Chẻ đôi sông núi đêm bưng mặt. Mưa quấn khăn vào sầu ấu thơ. Chẻ đôi thân thế mù tăm tích...”

Nhưng rồi, ngay cả hình ảnh nắng trong nhạc Trần Duy Đức cũng buồn thê thiết.

Thí dụ, ca khúc Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau, với lời: “...Ở chỗ nhân gian không thể hiểu. Em còn nắng gió tới mai sau. Thấy nhau mà lệ không sao chảy...”

Hay như, ca khúc Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt, với lời: “Hay em bỏ tôi đi trong một buổi chiều. Nắng ăn lốm đốm da em. Rồi em bỏ tôi đi. Anh ở lại như con sâu kèn...”

Hay như, ca khúc Tan Theo Ngày Nắng Vội, với lời: “Phải rồi, em cũng như sương. Phải rồi, em cũng như mây. Phải rồi, em cũng như mưa. Tan theo ngày nắng vội. Phải rồi, em cũng như ta...”

Hay như, ca khúc Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, với lời: “Hãy hỏi nắng đi rồi em sẽ hay. Tôi gầy như lá, lá như mây. Rừng khuya thổi suốt bao tâm...”

Một trong những người trân trọng nhạc Trần Duy Đức là nhà thơ Du Tử Lê.

Trong bài viết nhan đề “Lộ trình thơ, nhạc Trần Duy Đức” trên trang ttp://www.dutule.com, nhà thơ Du Tử Lê nhận xét:

“...Họ Trần muốn đi tới những chân trời mà, điểm gặp cũng là chỗ giao thao giữa thơ và âm nhạc. Họ Trần muốn đi tới phần ngọn nguồn tinh ròng hay thẳm cùng đáy sâu thử thách, nơi những rung động cảm thức không chia hai. Chỉ là một. Sự là-một, rốt ráo của thi ca vốn chưa từng phân, ly, chưa từng ngăn cách....

Chính tính bất khả phân kia, nơi đời kiếp âm nhạc mang tên Trần Duy Đức, đã làm thành một Trần Duy Đức, riêng. Rất riêng.”(hết trích)

Trong phong cách sáng tác nhạc, Trần Duy Đức vẫn là một người khó tính, bất kể rằng anh lãng đãng một trời thơ mộng, bất kể rằng anh đi lại trong cuộc đời thực với kiểu rất trầm, rất buồn và rất lặng lẽ.

Anh khó tính tới nỗi có khi “Đức nghiền ngẫm phổ nhạc một bài thơ lâu tới cả nửa năm hay một năm, khi đã có nhiều biến khúc khác nhau và rồi chọn được một biến khúc hài lòng nhất, thì Đức mới chịu thôi,” theo lời của nhà thơ Du Tử Lê.

Trong một cuộc phỏng vấn trên Việt Báo, nhà thơ Du Tử Lê đã giải thích, “Đức còn một điểm lạ nữa, là phổ thơ tự do mà không cần đổi lời hay cắt ngắn gì. Như bài thơ tự do 'Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt' được Đức phổ nhạc xong, thì tôi rất mực kinh ngạc. Chỉ có vài nhạc sĩ Việt Nam tới chỗ như thế, ngoài khả năng biến thơ tự do thành nhạc, còn là một tấm lòng trân trọng với thơ và nhà thơ...”

Nhà thơ Du Tử Lê tâm sự về những cơ duyên quen với nhạc sĩ Trần Duy Đức.

Năm 1982, họ quen nhau tại quán cà phê Tay Trái của Du Tử Lê. Lúc đó, Đức mới ở Việt Nam qua. Khi các nhạc sĩ đã buông đàn xuống, Đức mới nói với Việt Dzũng là Đức muốn hát. Du Tử Lê mời Đức lên sân khấu. Đức cầm đàn, hát hai ca khúc Đức phổ thơ từ thơ Du Tử Lê, và một ca khúc Đức phổ từ thơ Cung Trầm Tưởng.

Khi Đức rời sân khấu, về chỗ ngồi, mọi người trong quán vẫn còn ngây ngất - anh đã đem những âm vực lạ đưa vào thơ, và khi anh ngưng tiếng hát, các nốt nhạc vẫn còn như lơ lửng giữa trời. Họ thân nhau từ đó. Đức giải thích là Đức đọc thơ Lê từ báo Văn, thời Đức đóng quân ở Pleiku. Sau đó, tuần nào, anh em cũng mời Đức tới dự chương trình.

Và rồi như thế, Trần Duy Đức đã xuất hiện một cách dị thường, cả trong cuộc đời và âm nhạc.

Trong một bài viết năm 2003, tôi đã ghi lại (đúng vậy, gần một thập niên trước, tôi đã viết một bài về nhạc Trần Duy Đức) một số hình ảnh như sau:

“...Có lẽ những nét lạ lẫm dị thường trong Đức là do ảnh hưởng từ một tiền kiếp nào đó, theo nhận xét của một số bằng hữu. Nhà văn Lê Hà Nam, trong bài viết "Trần Duy Đức, Con Chim Đến Từ Núi Lạ Ngứa Cổ Hót Chơi" hồi năm 1992, đã ghi nhận:

"Tiếng cổ cầm Koto của người Phù Tang thời dựng nước vuốt theo từng nốt nhạc Trần Duy Đức, như sóng bạc đầu trên âm hưởng quần đảo, nghìn xưa. Phạm Công Thiện, có lần kể, một đạo sĩ Mỹ, bạn anh, từ Tây Tạng trở về, gặp Trần Duy Đức, đã buột miệng tiết lộ với anh rằng tiền kiếp Trần Duy Đức vốn là đạo sĩ của dòng tu khổ hạnh ở Kyoto. Dòng tu lâu đời nhất của xứ Thần Mặt Trời, tới nay, vẫn còn trên những đỉnh núi tuyết..."

Một Thiền Sư Nhật Bản cổ thời" Dáng Đức gầy, đầu hói gần như đầu các sư, đôi mắt sâu thẳm và đôi tai tinh luyện, chụp bắt được những âm thanh lạ lùng... Có phải là do cơ duyên nhiều kiếp trước.”(hết trích)

Hiển nhiên, chuyện tiền kiếp không phải ai cũng biết. Các đạo sĩ có thể biết, nhưng người đời thường, kiểu như chúng ta là chịu thua. Chúng ta chỉ biết rằng, xuyên suốt các ca khúc của Trần Duy Đức vẫn là một nỗi buồn rất là thơ mộng, thê thiết, lãng đãng và như những giọt mưa rơi từ tiền kiếp.

Phan Tấn Hải

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.