...xưng danh là đấu tranh cho độc lập với xương máu của dân mà đang
mất độc lập với Trung Quốc...
Khi Quốc hội Việt Nam bắt đầu một kỳ họp được coi là quan trọng về
cải tổ chính sách thì đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị một kỳ
họp còn chiến lược hơn về cải cách. Đặt trong bối cảnh chung của
những nan đề khó giải, đâu là cái hướng cải cách của hai nền kinh
tế này- Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế
Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông trong cả một tháng sắp
tới kể từ Thứ Hai, Quốc hội khóa 13 của Việt Nam có kỳ họp thứ
sáu để thảo luận và quyết định về nhiều bước cải tổ chính sách
trong bối cảnh kinh tế gặp tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ 13 năm
nay. Cùng lúc đó, theo dõi tình hình Trung Quốc từ lâu, ông cũng biết
lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa đang chuẩn bị một kỳ họp chiến
lược của Ban chấp hành Trung ương vào tháng tới. Vì vậy, chương trình
chuyên đề của chúng ta sẽ tìm hiểu về việc họp hành và cải cách
của hai nền kinh tế này. Xin ông trình bày cho thính giả của chúng ta
nắm rõ bối cảnh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về nghị trình thì quả là lần này Quốc hội
Việt Nam có một kỳ họp đầy trọng lượng so với những kỳ trước vì
phải thông qua việc cải tổ bản Hiến pháp hay Luật Đất đai, thảo luận
về tái cơ cấu kinh tế, hay về những chỉ tiêu trong năm, v.v.... Tuy
nhiên, dù không nói về khả năng tổ chức để các đại biểu có thể nắm
vững hồ sơ và nêu ra những vấn đề thật và đáng quan ngại, thì cơ
chế Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi cần
thiết cho nền kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn
thuộc về đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trong ý đó thì lãnh đạo đảng nên chú ý đến kỳ họp Tháng 11 của
đảng Cộng sản Trung Hoa. Lý do là Ban chấp hành Trung ương khóa 13 của
đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ có Hội nghị kỳ ba để đưa ra những thay
đổi cũng quan trọng như Hội nghị kỳ ba khóa 13 vào cuối năm 1978 khi
Đặng Tiểu Bình quyết định chuyển hướng qua khẩu hiệu "cải cách và
khai phóng". Việc cải cách đó mở ra 30 năm tăng trưởng kể từ 1979
và cũng phần nào là mẫu mực mà lãnh đạo Việt Nam đã tiếp thu sau
khi đổi mới thật từ năm 1991. Bây giờ, mẫu mực Trung Quốc đã thành
lỗi thời khiến lãnh đạo tại Bắc Kinh muốn đổi thì Hà Nội cần tìm
hiểu để kịp thời cải sửa ngay từ căn bản.
Vũ Hoàng: Có phải ông đánh giá Hội nghị kỳ ba tới đây của đảng
Cộng sản Trung Quốc là một bước ngoặt mà đảng Cộng sản Việt Nam nên
chú ý-
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là Hà Nội nên chú ý và sớm chuyển
hướng, vì việc ấy tương đối còn dễ hơn những gì mà lãnh đạo Bắc
Kinh phải giải quyết. Muốn như vậy,ta nên mở rộng tầm nhìn về những
quy luật có thể đem lại thịnh vượng thì sẽ hiểu ra vì sao mà Trung
Quốc phải đổi để thoát cơn khủng hoảng. Nói cách khác, nếu nhìn
thấy vết xe đổ của xứ láng giềng này thì ta có thể tránh được tai
họa cho quốc gia và dân tộc.
Vũ Hoàng: Như vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu về yêu cầu chuyển hướng của
Trung Quốc trong khuôn khổ của những quy luật có thể đem lại sự thịnh
vượng cho quốc gia. Xin ông bắt đầu.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được tóm lược như thế này.
- Sau 30 năm áp dụng chiến lược ráo riết đầu tư để đạt mức tăng
trưởng cao bằng mọi giá, lãnh đạo Trung Quốc đã thấy cái giá phải
trả là quá nặng nên muốn cải cách. Nhưng giữa lúc đó thì vụ Tổng
suy trầm toàn cầu bùng nổ vào năm 2008 nên họ vẫn cứ nhấn tới theo
hướng cũ và gặp nhiều khó khăn hơn. Sau Đại hội 18 vào năm ngoái,
thế hệ lãnh đạo mới đã rà soát tình hình và cố chuyển hướng trong
những điều kiện còn nan giải và bất ổn hơn. Hội nghị kỳ ba vào
tháng tới sẽ cân nhắc về chuyện này. Đó là về bối cảnh chính trị
của họ.
- Về thực chất kinh tế, chiến lược của Trung Quốc là vắt sức dân qua
chính sách đè nén, thậm chí bóc lột tài chính, để huy động tiết
kiệm của dân chúng đưa vào đầu tư sản xuất. Bóc lột tài chính vì
trả lãi suất và tỷ giá ngoại hối thấp, lương ít và còn hạn chế
quyền sinh sống và cư trú của người dân qua chính sách hộ khẩu để
thu vét phương tiện quá rẻ cho sản xuất. Vì sự lệch lạc về phí
tổn, nôm na là giá cả ở đầu vào thấp, sản phẩm dư thừa ở đầu ra
được ào ạt xuất khẩu với giá bèo làm thế giới khâm phục, nhưng lại
tích lũy nhiều thất quân bình nguy hiểm.
- Thứ nhất là phương tiện quá rẻ trưng thu của người dân đã đánh sụt
mức tiêu thụ của thị trường nội địa. Thứ hai là chúng lại trút vào
khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng nên chỉ làm giàu cho thiểu số
có chức có quyền và gây bất công xã hội. Thứ ba là tình trạng kém
hiệu năng đã gây lãng phí, dẫn đến nạn đi vay quá sức, sản xuất
thừa và bong bóng đầu cơ. Lồng trong ngần ấy nhược điểm là các vấn
đề xã hội mà trung ương không kiểm soát nổi, như nạn ô nhiễm môi sinh
và tình trạng đô thị hóa và công nghiệp hóa trong hỗn loạn. Bây giờ
thì đà tăng trưởng ấy đã sụt.
- Kết cuộc thì dù tự xưng là "xã hội chủ nghĩa", chiến
lược của Trung Quốc vẫn tập trung tiền tài và quyền lực cho một
thiểu số nên đi ngược quy luật của sự thịnh vượng.
Vũ Hoàng: Ông vừa tóm lược một số vấn đề mà chính Việt Nam cũng
đang gặp và muốn cải sửa, như khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu
năng, gánh nợ xấu của ngân hàng, tình trạng bất công xã hội và ô
nhiễm môi trường sinh sống trong đà tăng trưởng đang giảm sút. Nhưng khi
ông nói đến "quy luật của sự thịnh vượng" thì đấy là gì-
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tất cả các nước đi sau, có nền kinh tế gọi là
"đang phát triển" - như Trung Quốc, Việt Nam hay cả trăm xứ
khác - đều có thể học từ các nước công nghiệp hóa những kiến năng
về công nghệ hay tổ chức sản xuất để thoát khỏi tình trạng nghèo
đói. Trong hạ bán thế kỷ 20, các nước này đều đã trước sau nâng cao
mức sống của người dân so với quá khứ phải nói là chậm tiến và
nghèo khổ. Nhưng dù có lợi thế đi sau nên học được nhiều điều gần
như miễn phí từ các nước đi trước, không phải xứ nào cũng trở thành
quốc gia thịnh vượng, cụ thể là có lợi tức bình quân một đầu người
ở khoảng ba vạn Mỹ kim một năm. Có lẽ thế giới chỉ có ba trường
hợp thành công là Đài Loan, Nam Hàn và xứ Chile tại Mỹ châu La tinh.
Vũ Hoàng: Thưa ông vì sao như vậy-
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lý do không phải là địa dư hay nguồn tài nguyên
dồi dào dưới lòng đất, vì thật ra ba nước kể trên đều có bất lợi
và không giàu tài nguyên mà chỉ trong mấy chục năm đã lọt vào hạng
giàu có. Lý do là họ biết áp dụng quy luật của thịnh vượng mà tôi
xin gọi là "phát triển đồng tiến". Cụ thể là trong đà tăng
trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức và hưởng lợi tức một
cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh tế và
xã hội mới phát triển một cách bền vững.
Vũ Hoàng: Ông vừa trình bày một khái niệm hay phạm trù mà nhiều
thính giả của chúng ta có thể thấy là trừu tượng vì vậy xin ông
giải thích thêm cho rõ ràng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta để ý thấy là Đài Loan, Nam Hàn và Chile
đã từng có chế độ độc tài của phe thủ cựu cánh hữu. Họ không nêu
ra khẩu hiệu lý tưởng gọi là xã hội chủ nghĩa của cánh tả, nhưng
đã tự ý cải cách về chính trị để áp dụng một chế độ dân chủ.
Việc cải tổ đó khiến cho thiểu số ở trên không còn khả năng trưng thu
hay đè nén hay bóc lột đa số ở dưới.
- Chẳng những vậy, chế độ chính trị của họ còn xây dựng các định
chế cần thiết cho phát triển, như quyền tự do kinh tế, quyền sở hữu
của tư nhân, như hệ thống luật lệ minh bạch với quyền tư pháp độc
lập, hay quyền đàn hặc phê bình lãnh đạo. Nôm na là tư nhân có quyền
mà nhà nước phải tôn trọng và phải bảo vệ vì tay chân nhà nước chỉ
là công cụ nhất thời của người dân.
- Đa số quốc gia kia lại chẳng được như vậy vì thiểu số ở trên áp
dụng chiến lược trưng thu và cưỡng bách nên sau giai đoạn cất cánh
tăng trưởng có vẻ ngoạn mục là họ đụng trần và không nâng được lợi
tức người dân quá mức trung bình. Họ rơi vào tình trạng gọi là
"cái bẫy của lợi tức trung bình" mà không thoát ra được.
Trung Quốc đang lọt vào cái bẫy đó, Việt Nam cũng vậy.
- Trong một thế giới toàn cầu hóa với thông tin mở rộng, khi lãnh
đạo lại đưa người dân vào bẫy vì "chiến lược trưng thu" thay
vì "chiến lược đồng tiến" thì khủng hoảng rất dễ xảy ra
như chúng ta đã thấy tại nhiều quốc gia.
Vũ Hoàng: Sau khi đặt vấn đề như vậy rồi thì ông liên hệ thế nào
đến những yêu cầu cải cách mà lãnh đạo của Trung Quốc và Việt Nam
đang muốn tiến hành?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nêu ra những ví dụ cụ thể đang làm giới
lãnh đạo hai xứ này đau đầu và muốn sửa từ lâu nhưng cứ dậm chân
tại chỗ.
- Thứ nhất, vì sao khu vực kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ
đạo- Đấy là hệ quả của chiến lược trưng thu vì vơ vét tài nguyên
quốc dân dồn cho tập đoàn kinh tế nhà nước, thậm chí cho các chính
quyền địa phương như tại Trung Quốc. Tài nguyên đó là tiết kiệm, tín
dụng và đất đai. Chiến lược ấy bất công và bất ổn vì làm giàu cho
thiểu số và gây thất quân bình vĩ mô.
- Thứ hai, vì sao các dự án đầu tư và tín dụng của khu vực công lại
gây bội chi ngân sách và chất lên một núi nợ xấu sẽ đổ lên đầu cả
nước- Vì chiến lược trưng thu đã ép sức tiết kiệm của dân và tạo ra
nguồn tiền quá rẻ cho các tập đoàn nhà nước và tay chân tự tiện sử
dụng vì lợi ích riêng. Cũng do chiến lược này ta mới thấy các tập
đoàn kinh tế nhà nước đi vay bừa phứa mà khỏi cần nghĩ đến cách
trả nợ.
- Thứ ba, vì sao một tài nguyên chung của cả nước là đất đai lại do
một thiểu số quyết định đằng sau khẩu hiệu hay điều luật là "do
nhà nước thống nhất quản lý"- Vì chiến lược trưng thu đã đoạt
quyền tư hữu một phương tiện sản xuất quan trọng là đất đai để tay
chân của đảng và nhà nước có thể lũng đoạn, hay thậm chí đánh bạc,
trong các dự án kinh tế kém hiệu năng của họ. Được thì họ lấy mà
thua thì dân chịu.
- Căn bản nhất vì cũng là lý do giải thích những bất công và phi lý
ấy là vai trò độc quyền của đảng và công cụ của đảng là nhà nước
và tay chân của đảng là các đại gia thân tộc. Họ trở thành thiểu số
tư bản đỏ, nhân danh xã hội chủ nghĩa mà xây dựng chế độ tư bản nhà
nước trên đầu cả nước và cản trở mọi nỗ lực cải cách. Khi kinh tế
phát đạt thì họ đánh bạc làm giàu trên thị trường cổ phiếu và địa
ốc, khi kinh tế suy trầm thì họ tẩu tán tài sản và tư doanh theo nhau
phá sản.
Vũ Hoàng: Như vậy thì ông cho rằng Việt Nam nên cải cách từ đâu?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ đến một quy luật chung là nhiều chế độ
thành hình nhờ khẩu hiệu đấu tranh cho công bằng xã hội mà sau đó
lại tạo ra bất công và làm kinh tế không tạo ra thịnh vượng cho toàn
dân. Việt Nam cũng bị tệ nạn phổ biến này và còn gặp một tai họa
khác là chế độ đã xưng danh là đấu tranh cho độc lập với xương máu
của người dân mà đang mất độc lập với Trung Quốc.
- Về chuyện trước mắt thì việc Quốc hội họp hành là "có còn
hơn không", nhưng vấn đề rốt ráo triệt để không nằm ở đó, như
người ta có thể thấy trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề là
hệ thống chính trị và vai trò của đảng độc quyền.
- Thật ra, bên cạnh một Trung Quốc đang xoay trở để chuyển hướng mà
vẫn cố bảo vệ chế độ toàn trị của đảng thì Việt Nam có cơ hội
vượt thoát nếu dám cải cách mạnh dạn hơn và sớm sủa hơn. Cải cách
từ hệ thống chính trị ở trên cho dân chủ hơn xuống chiến lược kinh
tế ở dưới cho dân chúng được tự do hơn. Việc cải cách đó mới thực
sự dẫn tới phát triển và đưa Việt Nam ra khỏi vòng ngoại thuộc.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.