Qua tài liệu lịch sử và qua các nhân vật như ông Bùi Tín, nhà báo
Huy Đức, NS John McCain... thì hình ảnh của ông tướng Võ Nguyên Giáp
trong tôi là:
- Nhát;
- Bỏ rơi anh em;
- Nuớng quân như đốt lá;
- Máu lạnh;
- Tư duy nô lệ đảng và nghị quyết;
- Ích kỷ.
Về máu lạnh, xin trích ông Ngô Nhân Dụng và tài liệu:
"khi trả lời phỏng vấn của một phóng viên ngoại quốc hỏi...
'Thưa Đại Tướng Giáp, ông có hối tiếc gì về việc bốn triệu người
Việt đã chết trong chiến tranh Việt Nam không?' Và Tướng Giáp đã không
đắn đo trả lời ngay...'Không, tôi không hề hối tiếc. Không một mảy may
nào'."
Nếu danh tướng tự cổ chí kim thường "bất hứa nhân gian kiến bạch
đầu" thì người tướng sống 103 tuổi cần được suy ngẫm lại có
thực là một danh tướng hay không? hay chỉ là con người của thời cuộc,
nằm trong một hệ thống quyền lực và chỉ do vì nhu cầu vận chuyển
của hệ thống mà ra.
Ông Giáp đùng một cái được ông Hồ Chí Minh cho đeo lon đại tướng,
vượt 17 cấp, kỳ công này chỉ có một đối thủ của ông là Kim Chánh Ân
đang lãnh đạo Bắc Hàn.
Không dám ra mặt trận, chỉ huy trận Điện Biên Phủ thì ở trong hang
cách trận tiền 10 cây số. Tấn công Miền Nam thì chỉ ngồi ở Miền
Bắc, có lẽ vì vậy mà tuớng Văn Tiến Dũng viết quyển Đại Thắng Mùa
Xuân chẳng thấy nhắc đến ông.
Bài bản của CS là nói láo có tổ chức (tuyên truyền) để biến lãnh
tụ chóp bu thành thần thánh và lãnh tụ cấp hai thành vĩ nhân, tạo
hào quang sáng chói để núp vào phía sau mà chuyên chính. Cho nên chị
Phạm Thị Hoài nhận xét thật lý thú. Thần thánh Hồ Chí Minh đã tắt
44 năm qua thì xác ướp làm sao giữ được hào quang. Vĩ nhân Võ Nguyên
Giáp vừa nằm xuống sau khoảng hai năm sống đời thực vật. Các lãnh
tụ còn lại chỉ là đội cầu tỉnh lẽ. Đảng CSVN đang đi vào vùng ánh
sáng leo lét còn sót lại của buổi hoàng hôn.
Cái "Nước Mắt Rơi Chung" mà nhà văn Nguyễn Ngọc Tư viết trên
Saigon Tiếp Thị để thương tiếc ông như "một anh buột miệng 'nhìn
ổng hiền như con cọp ăn chay'." và nhà văn lo lắng "chẳng còn
ai đủ lớn", mà trong đó chắc không ai đếm được, bên cạnh tiếng
khóc đám ma, còn có những tiếng khóc mừng trong tâm trạng "khấp
như xử nữ vu quy nhật" để tống cựu nghinh tân, tiển đưa một chế
độ đã suy tàn.
Người dân 68 năm qua ở Miền Bắc và 38 năm qua ở Miền Nam sống bên trong
cái đại hồng chung CS, cho nên không thể trách họ là chỉ thấy vĩ nhân
ở bên trong cái chung. Đến khi cái chung được mở, và lịch sử được
thoát ra khỏi vòng kim cô kềm toả thì thánh Hồ và vĩ nhân Giáp sẽ
có chổ đứng của họ, nhưng là chổ đứng của con người có tác động
tốt/xấu trong dòng sống của dân tộc Việt Nam.
Nhiều người mà trong đó có tôi vẫn cứ ray rứt với cái giả dụ rằng,
nếu không có đảng CSVN thì đất nước này có độc lập từ thực dân
Pháp hay không? các tinh hoa của Việt Nam có bị thủ tiêu hay không?
khoảng bốn triệu xương trắng máu đào của dân tộc Việt có bị phung
phí như vậy hay không? và Việt Nam hôm nay chất liệu xã hội có tan
nát như thế này hay không?
+++++
Cải Cách Để Tái Quân Bình
Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA
Với Việt Nam, lời cảnh báo đáng chú ý là đà tăng trưởng sẽ còn giảm,
khủng hoảng ngân hàng dễ xảy ra...
Thứ Hai mùng bảy vừa qua, Ngân hàng Thế giới công bố tại Singapore
báo cáo cập nhật về kinh tế Đông Á với những cảnh báo về yêu cầu
cải cách cho một số quốc gia để tái quân bình nền kinh tế toàn cầu.
Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về yêu cầu đó qua phần trao đổi sau đây
của Vũ Hoàng với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đúng một tuần sau khi một
phần của bộ máy công quyền liên bang Hoa Kỳ bị tạm đóng cửa vì cuộc
tranh luận trong Quốc hội Mỹ về ngân sách thì Ngân hàng Thế giới công
bố bản cập nhật về tình hình kinh tế Đông Á. Ông nhận xét thế nào
về bản báo cáo này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi chú trọng nhất đến lời cảnh báo của bản
phúc trình.
- Nói chung, Ngân hàng Thế giới dự báo về đà tăng trưởng kinh tế của
toàn năm và nêu ra nhiều rủi ro đang chờ đợi các nước Đông Á trong năm
tới. Phần dự báo là đà tăng trưởng của Đông Á sẽ giảm so với năm
ngoái, nhưng dù như vậy thì nhóm Đông Á này vẫn có sức tăng trưởng
cao nhất và đóng góp tới 40% vào đà tăng trưởng toàn cầu và một
phần ba của cán cân ngoại thương trên thế giới, nghĩa là một nhóm
kinh tế năng động và có sức nặng lớn nhất. Phần cảnh báo về chuyện
tương lai mới là điều có ích nhất của báo cáo này.
Vũ Hoàng: Thưa ông, Ngân hàng Thế giới nêu ra những rủi ro gì cho tương
lai trước mặt?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngoài biến động về an ninh tại Trung Đông với ảnh
hưởng vào giá dầu, sự hồi phục của kinh tế toàn cầu có thể gặp
trở ngại từ ba chuyện. Thứ nhất là những bế tắc về tình hình ngân
sách tại Hoa Kỳ, thứ hai là việc các nước công nghiệp hóa sẽ hút
lại lượng tiền đã bơm ra để kích thích kinh tế, và thứ ba là một
sự sút giảm đầu tư khá đột ngột của Trung Quốcl Trong phần cảnh báo,
ta nên chú ý đến một hiện tượng được gọi là "tái cân bằng"
và có lẽ đấy là chiều hướng chung của những nền kinh tế mạnh nhất,
với hậu quả và dao động lan ra toàn cầu.
Vũ Hoàng: Trước hết, xin ông giải thích cho hiện tượng "tái cân
bằng" này là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi Ngân hàng Thế giới nhắc đến ba rủi ro kinh tế
vừa kể ở trên là ngân sách Hoa Kỳ, là lượng tiền bơm ra để kích
thích kinh tế và lượng đầu tư của Trung Quốc, ta cùng thấy ra một
nét chung. Đó là sau khi ráo riết bơm tiền đầu tư, để kích thích sản
xuất và tiêu thụ từ nạn tổng suy trầm, các nước đều có nhu cầu thu
hồi lại lượng tiền bơm ra và tiến trình tái cân bằng đó sẽ gây ra
chuyển động ngược với những gì đã thấy trong năm năm qua. Sự chuyển
động ngược có thể gây ra nhiều dao động thậm chí biến động cho các
nước.
- Ngoài ra, nếu nhìn vào viễn ảnh dài hơn và vượt khỏi nội dung của
phúc trình cập nhật hóa về kinh tế trong khu vực Đông Á, chúng ta có
thể thấy ra một nhu cầu tái cân bằng rộng lớn, xuất phát từ những
nguyên nhân sâu xa và lâu dài hơn. Tôi thiển nghĩ rằng ta nên khởi sự
từ viễn ảnh dài đó thì sẽ hiểu ra những rủi ro ngắn hạn ngay trước
mắt.
Vũ Hoàng: Dường như ông đang trình bày lại bối cảnh của một vấn đề
sâu xa lâu dài đã dẫn đến khủng hoảng tài chính 2008 rồi nạn Tổng
suy trầm 2008-2009 khiến nhiều nước có biện pháp kích thích và bây
giờ đang đảo ngược tác động kích thích đó. Có phải là như vậy
không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng như thế và nếu mở rộng giác độ
để nhìn sự thể trên toàn cảnh thì mình sẽ hiểu vì sao việc
"tái cân bằng" sẽ chi phối các lĩnh vực ngoại thương, ngoại
hối, tài chính ngân hàng, sản xuất kinh tế và thậm chí xã hội lẫn
chính trị của nhiều quốc gia. Đây là một vấn đề phức tạp mà chúng
ta phải tìm hiểu nhiều lần từ nhiều khía cạnh khác nhau.
- Trước hết, ta nên ý thức được trào lưu chung là hiện tượng
"toàn cầu hóa" hay "kinh tế nhất thể hóa". Đó là
khi đại đa số các quốc gia hay nền kinh tế trao đổi hàng hóa, dịch
vụ và tư bản với nhau một cách tương đối tự do và mau lẹ hơn trước.
Hiện tượng này đã có từ mấy chục năm rồi.
- Thứ hai, trong luồng trao đổi, các nước mặc nhiên bù đắp cho nhau qua
nhiều ngả. Giả dụ như ta bán hàng qua xứ này thì đạt thặng dư cán
cân thương mại, thế đồng tiền thu vào như vậy sẽ chảy đi đâu? Nó có
thể chảy qua nền kinh tế bị thâm hụt cán cân thương mại khiến quốc
gia bị nhập siêu lại có thêm tiền trong cán cân vãng lai để mua tiếp. Tổng
hợp lại thì ta có sự cân bằng chung, y hệt như trong một bảng kết
toán về kế toán vậy. Khái niệm có vẻ đơn giản này thật ra khá rắc
rối nên chúng ta mới cần nhắc đi nhắc lại để ý thức được hậu quả
về chính sách.
Vũ Hoàng: Có lẽ ông đang từng bước trình bày một vấn đề phức tạp
để làm nổi bật hiện tượng "tái cân bằng" đang xảy ra trước
mắt chúng ta, mà là một sự tái cân bằng toàn cầu.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Quả thật là vậy vì nếu nhìn kinh tế toàn cầu
như qua bảng kế toán tổng thể thì ta sẽ thấy mối liên hệ giữa ngoại
thương và ngoại hối, giữa tiết kiệm và đầu tư và giữa nước này với
nước khác. Khi đó, ta hiểu rõ hơn sự kiện ít biết là khi một quốc
gia này thay đổi chính sách, thí dụ như cải cách để chuyển hướng,
thì các xứ khác sẽ bị ảnh hưởng.
- Một cách cụ thể và trở lại lời cảnh báo của Ngân hàng Thế giới,
khi Hoa Kỳ hay Trung Quốc, Nhật Bản hoặc Âu Châu phải chấn chỉnh lại
chi thu hoặc cải tổ lại cơ chế kinh tế thì điều ấy tác động vào
các nước khác. Sau nhiều thập niên mất quân bình và năm năm ứng phó
bằng những biện pháp bất thường, các nước đang ở giữa chu kỳ cải
cách sâu rộng với ảnh hưởng toàn cầu.
Vũ Hoàng: Nếu chúng tôi hiểu không lầm thì ông muốn nói đến sự
chuyển động tích lũy từ nhiều thập niên nên mới dẫn tới vụ khủng
hoảng và suy trầm trong năm năm qua. Vì nạn suy trầm đó, nhiều quốc
gia mới tung ra biện pháp can thiệp để kích thích kinh tế và gây ra
một trạng thái thất quân bình khác. Nay đến lúc các nước đang cải
sửa những gì đã gây ra trong năm năm qua và tìm lại một sự quân bình
khác cho nhiều thập niên tới. Có phải là như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đang đề cập tới những phạm trù khá
trừu tượng mà cách ông tóm lược là điều dễ hiểu nhất về một thực
tế quá phức tạp. Bây giờ, ta châm thêm vào bài toán này một khái
niệm khác để tổng hợp lại trước khi đi tới kết luận về chính sách.
Nói chung, ta nên nghĩ tới hai yếu tố tổng hợp là tiết kiệm và đầu
tư, trên nguyên tắc là phải cân bằng trong nền kinh tế gọi là nhất
thể hóa của toàn cầu.
- Một quốc gia tiết kiệm ít có nghĩa là tiêu thụ nhiều và như vậy
phải nhập khẩu nhiều hơn khả năng xuất khẩu nên bị thâm hụt cán cân
thương mại, trường hợp điển hình là Hoa Kỳ hay các nước lâm nạn trong
khối Euro ở miền Nam Âu Châu. Đối diện thì ta có các nước tiết kiệm
nhiều, tiêu thụ ít và đạt xuất siêu, tức là được thặng dư cán cân
thương mại, đó là trường hợp của Trung Quốc, Nhật Bản hay nước Đức
trong khối Euro.
Vũ Hoàng: Thưa ông, nói nôm na cho dễ hiểu với thính giả của chúng ta
tại Châu Á thì Hoa Kỳ tiết kiệm ít, tiêu thụ nhiều nên kết hợp khá
ăn khớp với Trung Quốc là xứ tiêu thụ ít, tiết kiệm nhiều, rồi có
tiền lại đem qua Mỹ đầu tư. Có phải là như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa đấy là hình ảnh dễ hiểu nhất. Thế rồi sau
mấy chục năm trao đổi hàng hóa và tư bản theo kiểu bổ sung thừa
thiếu như vậy thì sự cân bằng sụp đổ. Khi khủng hoảng bùng nổ làm
sản xuất suy sụp thì xứ nào cũng bơm tiền kích thích và lại tạo ra
một thất quân bình khác.
- Tại Hoa Kỳ thì đó là hiện tượng bội chi và đi vay nên mới gây tranh
luận ráo riết về ngân sách. Tại Trung Quốc thì chiến lược ráo riết
đầu tư và đè nén lợi tức của người dân để thu vét tiết kiệm dồn
qua sản xuất cũng gặp bế tắc. Khi thế giới bị Tổng suy trầm thì họ
tiếp tục chiến lược đẩy mạnh tiết kiệm, tức là đè nén tiêu thụ,
rồi vay tiền bơm vào doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước, nên
rơi vào tình trạng thất quân bình khá nguy ngập hiện nay.
- Thế rồi trong bốn khối kinh tế dẫn đầu thế giới, theo thứ tự là
Âu, Mỹ, Tầu, Nhật thì kinh tế Mỹ đã hồi phục sớm nhất. Cho nên từ
Tháng Năm vừa qua, Ngân hàng Trung ương Mỹ mới nói đến việc sẽ thu
hồi dần lượng tiền đã được bơm ra qua phương pháp bất thường gọi là
QE hay "nâng mức lưu hoạt có định lượng". Việc thu hồi đó
gọi là "tapering" - nôm na là vuốt nhọn cho một chính sách
tiền tệ tinh vi hơn. Dù chưa áp dụng thì lời thông báo cũng làm các
thị trường rúng động vì sợ tư bản sẽ chảy về Hoa Kỳ để hưởng lãi
suất cao hơn. Nghĩa là khi Mỹ tìm cách tái lập một sự cân bằng mới
thì các nước kia bị ảnh hưởng. Ảnh hưởng đó thể hiện trong lĩnh
vực mậu dịch vì Mỹ sẽ nhập khẩu ít hơn và xuất khẩu nhiều hơn, sẽ
thể hiện trong lĩnh vực ngoại hối khi tiền Mỹ có thể lên giá sau khi
đã sụt trong mấy năm liền vì biện pháp bơm tiền gọi là QE.
- Trong ba rủi ro mà Ngân hàng Thế giới cảnh báo thì có hai rủi ro
xuất phát từ Hoa Kỳ. Đó là vụ ách tắc về ngân sách khi nỗ lực
giảm chi gây tranh luận lớn trong Quốc hội và việc Ngân hàng Trung ương
Mỹ sẽ giảm dần và hút lại lượng tiền bơm ra theo lối QE.
Vũ Hoàng: Thưa ông, có phải là rủi ro thứ ba cho các nước chính là
yêu cầu tái cân bằng của Trung Quốc hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng đây là rủi ro lớn nhất cho chính
Trung Quốc và có thể là bài học của cải cách cho Việt Nam trong
thời gian tới.
- Trước hết, Trung Quốc chọn chiến lược lấy đầu tư làm lực tăng
trưởng mà bất kể tới phẩm chất của tăng trưởng. Vì đầu tư và sản
xuất quá nhiều, xứ này mới xuất khẩu bằng mọi giá, tức là bất kể
lời lỗ mà thường thì lỗ hơn lời. Để vét tiền đầu tư, họ vắt sức
tiết kiệm của người dân qua chính sách đè nén tài chính ở ba cửa,
là trả lãi suất ký thác quá rẻ, định tỷ giá đồng bạc quá thấp
và kiểm soát mức lương công nhân để thu hút đầu tư quốc tế. Kết quả
biểu kiến bề mặt là sức xuất khẩu cao, lượng dự trữ ngoại tệ lớn
và chính sách bành trướng quân sự khá ngang ngược.
Vũ Hoàng: Khi nói chuyện biểu kiến ở bề mặt, hiển nhiên là ông hàm
ý là cò những hậu quả chìm sâu bên dưới. Đó là những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Hậu quả tai hại thứ nhất là trái bóng đầu cơ
bị bể vì việc phân phối tiết kiệm quá rẻ của người dân vào các dự
án có giá trị kinh tế quá thấp. Thứ hai núi nợ quá lớn của ngân
hàng, của các địa phương và nói chung của cả nền kinh tế sẽ sụp
đổ. Hậu quả thứ ba, trầm trọng nhất và không thể kéo dài là phần
đóng góp quá thấp của tiêu thụ nội địa trong sản lượng kinh tế. Nôm na
là xứ này có sức tiết kiệm cao bằng phân nửa lợi tức của người
dân, và có mức tiêu thụ nội địa thấp nhất, chỉ bằng 35% Tổng sản
lượng, nay sẽ tăng trưởng thấp hơn, với khả năng vỡ nợ và khủng
hoảng nếu không chuyển hướng.
- Nói cho vắn tắt thì chiến lược vắt sức dân làm lực đẩy kinh tế
qua khu vực quốc doanh được trợ cấp đã hết công hiệu và xứ này cần
tái lập một sự cân bằng khác, nếu không thì sẽ bị loạn. Mà vì cả
thế giới cũng đang tái lập quân bình nên việc chuyển hướng của Trung
Quốc sẽ khó khăn hơn.
Vũ Hoàng: Phải chăng đấy cũng là lời cảnh báo của Ngân hàng Thế
giới?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Không chỉ Ngân hàng Thế giới mà ngày càng có
nhiều trung tâm kinh tế và đầu tư đề cập tới những khó khăn này chứ
hết còn ca tụng Trung Quốc nữa.
- Khi các nước tiêu thụ nhiều tiết kiệm ít đều chấn chỉnh chi thu và
giảm nhập khẩu cùng tăng xuất khẩu thì Trung Quốc không dễ gì tìm
lực đẩy nhờ xuất khẩu và nếu xứ nào cũng muốn xuất nhiều hơn nhập
thì tranh chấp mậu dịch rất dễ bùng nổ qua chính sách bảo hộ mậu
dịch hay thau đua phá giá đồng bạc. Khi Mỹ, Nhật hay các nước Âu Châu
cùng chấn chỉnh để tái phối trí bên trong, Trung Quốc không có thể
trông chờ vào quốc tế mà phải giải quyết lấy bài toán của mình.
Vì vậy, nguy cơ biến động, mâu thuẫn về mậu dịch và hối đoái giữa
các nước càng dễ xảy ra.
- Với Việt Nam, lời cảnh báo đáng chú ý là đà tăng trưởng sẽ còn
giảm, khủng hoảng ngân hàng dễ xảy ra vì gánh nợ quá lớn và khu
vực kinh tế nhà nước là nơi phải triệt để cải cách. Ngần ấy vấn
đề đều đang là bài toán sinh tử của Trung Quốc mà cũng là ba thách
đố cho Việt Nam. Ngược lại, nhân khi Trung Quốc bị bế tắc và phải
cải cách thì Việt Nam cũng có cơ hội thoát hiểm, miễn là cũng phải
cải cách để tìm ra sự cân bằng khác trong cơ chế kinh tế của mình.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã trả lời phỏng vấn từ California.