Hôm nay,  

Khái quát Sử Việt: Quốc Tổ Hùng Vương

18/12/201200:00:00(Xem: 8625)
Quốc Tổ Hùng Vương (18 Chi: 47 Đời Vua; từ 2879 TCN - 258 TCN)

(Lời tâm tình: “Khái quát Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. Xin độc giả đừng xem đấy là chính sử, vì “Thiết nghĩ” chỉ là ý kiến riêng rẽ của tác giả mà thôi. “Khái quát Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần - NLY).

Theo Hùng triều Ngọc phả, Quốc tổ (xem thêm tỉnh Phú Thọ) của dân tộc Việt Nam là họ Hồng Bàng, dựng nước Văn Lang (VN), đóng đô ở Phong Châu. Quốc tổ Hùng vương đã gìn giữ thổ cương và sửa sang đất nước, 18 thời Hùng Vương (có 18 chi, một chi có nhiều đời vua, tất cả 47 đời vua), 18 thời vua Hùng gồm có:

- Chi I, đứng đầu: Kinh Dương vương (huý: Lộc Tục)
- Chi II, đứng đầu: Hùng Hiền vương (huý: Sùng Lãm)
- Chi III, đứng đầu: Hùng Quốc vương (huý: Hùng Lân)
- Chi IV, đứng đầu: Hùng Hoa vương (huý: Hùng Bửu Lang)
- Chi V, đứng đầu: Hùng Huy vương (huý: Bảo Lang)
- Chi VI, đứng đầu: Hùng Hồn vương (huý: Long Tiên Lang)
- Chi VII, đứng đầu: Hùng Chiêu vương (huý: Quốc Lang)
- Chi VIII, đứng đầu: Hùng Vĩ vương (huý: Văn Lang)
- Chi IX, đứng đầu: Hùng Định vương (huý: Chân Nhân Lang)
- Chi X, đứng đầu: Hùng Uy vương (huý: Hoàng Long Lang)
- Chi XI, đứng đầu: Hùng Trinh vương (huý: Hưng Đúc Lan)
- Chi XII, đứng đầu: Hùng Vũ vương (huý: Đức Hiền Lang)
- Chi XIII, đứng đầu: Hùng Việt vương (huý: Tuấn Lang)
- Chi XIV, đứng đầu: Hùng Anh vương (huý: Viên Lang)
- Chi XV, đứng đầu: Hùng Triệu vương (huý: Chiêu Lang)
- Chi XVI, đứng đầu: Hùng Tạo vương (huý: Đức Quân Lang)
- Chi XVII, đứng đầu: Hùng Nghi vương (huý: Bảo Quang Lang)
- Chi XVIII, đứng đầu: Hùng Duệ vương (huý: Huệ Vương)

Hùng Vương miếu ở Hùng Sơn còn gọi là: Núi Đền hay Nghĩa Cương, ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là cổ kính nhất, đền cách Hà Nội khoảng 100 km. Muốn đến Đền Hùng phải leo lên 296 cấp, sẽ thấy tấm hoành lớn ghi “Hùng Vương Miếu”.

Nơi đền Hùng có bia đề “Cao Sơn Cảnh Hùng”, ở bàn thờ có bài vị: “khai quốc hồng đồ, đột ngột cao sơn cổ Việt Hùng Thị, thập bát Thánh Vương vị” (Mười tám vị vua Thánh dựng nước Việt xưa, sự nghiệp như non cao vòi vọi).

Trong đền có câu đối chữ Hán và chữ Nôm.

Chữ Hán: Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế dục dư đồ dục mệnh thi
Nghĩa là: Hỏi han chuyện cổ, mong làm sử
Mê mải địa đồ muốn nhả thi

Chữ Nôm:
Vật đổi sao dời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích
Nước nguồn cây cội, đạo người nên nhớ mộ Hùng Vương.
Đền Hùng có: Đền Thượng, đền Trung, và đền Hạ. Gần đền Hạ có chùa và giếng Tiên.

Từ trước đến nay, chúng ta nghĩ: “Đời” vua Hùng là giai đoạn sinh sống của một vị vua của họ Hồng Bàng, nên gọi 18 đời vua, mà thời gian trị vì kéo dài 2.622 năm (2879-258), thì không hợp lý, vì trung bình một vị vua trị vì khoảng 145 năm (2622/18). Gần đây, công trình nghiên cứu của một số học giả, đã tìm trong “Hùng Triều Ngọc Phả”, ông Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê đã ghi: “Thời đại Hùng Vương kéo dài 2.622 năm, gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Triều Ngọc Phả, chữ Đời vua phải hiểu là thời hay chi (nhiều đời vua).

Trong bài: “Văn hoá tâm linh- đất tổ Hùng Vương” của tác giả Hồng Tử Uyên: “Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm các truyền thuyết thư tịch cổ, các ngọc phả ở các xã xung quanh vùng có đền thờ vua Hùng, như xã Huy Chương (Vĩnh Phú) hiện lưu giữ tại vụ Bảo Tồn Bảo Tàng, Bộ Văn Hoá (số liệu HT.AE9), thì các tài liệu này không ghi chép là 18 đời vua Hùng, mà lại ghi là 18 chi, mỗi chi gồm nhiều đời vua, có cả năm và can chi lúc sanh và lúc lên ngôi. Các đời vua Hùng trong một chi, đều lấy hiệu của vua đầu chi ấy”. Ngoài ra, trong tác phẩm “Cội Nguồn Việt Tộc” của Phạm Trần Anh, do Trần Thục Vũ và Phạm Trần Hào xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2004. Phạm Trần Anh đã chứng minh, giai đoạn 2.622 năm (2879-258) của thời Hồng Bàng có 18 chi (một chi có nhiều đời vua) đầy tính thuyết phục.

Hiện nay ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phúc còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”, thờ 3 vị vua cuối cùng Hùng Vương, là Hùng Vương thứ 18, thuộc chi Quý. Chi này chấm dứt năm 258 (TCN), vào khoảng thời nhà Đông Chu (Tàu).

Theo Hùng Triều Ngọc Phả, thì mỗi hiệu vua đầu được gọi là một “Chi”, rồi các vua kế tiếp trong chi ấy vẫn lấy cùng đế hiệu. Mỗi chi gồm nhiều đời vua và được xếp theo thứ tự của 8 cung Bát quái và thập (10) can, là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Các thời Hùng Vương gồm tất cả 47 đời vua, theo thứ tự như sau:

1- Chi Càn: Kinh Dương Vương. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên ghi: “Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước Đại Việt ta ... lên ngôi năm 2879 (TCN)”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm 2919 (TCN), trị vì 86 năm, từ năm 2879 (TCN) đến năm 2794 (TCN), không rõ chi càn trị vì mấy đời vua.

2- Chi Khảm: Hùng Hiền Vương tức Lạc Long Quân húy Sùng Lãm, sinh năm 2825 (TCN), lên ngôi 33 tuổi, trị vì 269 năm, từ năm 2793 (TCN) đến 2525 (TCN). Thời kỳ này theo Truyền Kỳ gọi là huyền sử Rồng Tiên. Các vua đều lấy hiệu Hùng Hiền Vương. Tài liệu không ghi rõ chi Khảm có mấy đời vua. Ngang thời Ngũ Đế.


3- Chi Cấn: Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân, chi này trị vì từ năm 2524 (TCN)-2253 (TCN), kéo dài 271 năm. Tài liệu không ghi rõ là có mấy vị vua trong chi này. Ngang thời Đế Thuấn (2258-2205TCN).

4- Chi Chấn: Hùng Hoa Vương huý Bửu Lang. Lên ngôi năm 2253 (TCN) chi này trị vì 342 năm, đến năm 1912 (TCN), tài liệu không ghi rõ mấy vị vua. Ngang thời nhà Hạ của Tàu (2205-1767 TCN).

5- Chi Tốn: Hùng Huy Vương húy Bảo Lang, sinh năm 2030 (TCN), lên ngôi 59 tuổi. Chi này kéo dài 200 năm, từ năm 1912 (TCN)-1713 (TCN). Không ghi rõ có mấy vị vua, đều xưng là Hùng Huy Vương.

6- Chi Ly: Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740 (TCN), lên ngôi 29 tuổi, chi này gồm 2 đời vua trị vì 81 năm, từ năm 1712 -1632 (TCN). Ngang thời với nhà Thương (1766-1122 TCN).

7- Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1768, (TCN), lên ngôi 18 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua, kéo dài 200 năm, từ năm 1631 (TCN) đến năm 1432 (TCN).

8- Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang, sinh năm 1469 (TCN), lên ngôi 39 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua, trị vì cả thảy là 100 năm, từ năm 1431 (TCN) đến năm 1332 (TCN). Ngang thời nhà Thương.

9- Chi Giáp: Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381 (TCN), lên ngôi 45 tuổi. Chi này gồm 3 đời vua, trị vì 80 năm, từ năm 1331 (TCN) đến năm 1251 (TCN).

10- Chi Ất: Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294 (TCN), lên ngôi 37 tuổi, chi này gồm 3 đời vua, trị vì 90 năm, từ năm 1251 (TCN) đến năm 1161 (TCN). Ngang thời nhà Thương.

11- Chi Bính: Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1211 (TCN), lên ngôi 51 tuổi. Chi này gồm 4 đời vua, trị vì 107 năm, vào năm 1161-1055 (TCN). Ngang thời nhà Chu. (1122-256 TCN).

12- Chi Đinh: Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114 (TCN), lên ngôi 52 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài 96 năm, từ năm 1054 (TCN)-958 (TCN). Ngang thời nhà Chu.

13- Chi Mậu: Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm 990 (TCN), lên ngôi 23 tuổi, chi này có 5 đời vua, kéo dài 95 năm, từ năm 958 (TCN) đến năm 863 (TCN). Ngang thời nhà Chu.

14- Chi Kỷ: Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm 903 (TCN), lên ngôi 42 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 863 (TCN) đến năm 779 (TCN) trị vì tất cả là 84 năm. Ngang thời nhà Chu.

15- Chi Canh: Hùng Triệu Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745 (TCN), lên ngôi 35 tuổi, chi này gồm 3 đời vua, kéo dài từ năm 779 (TCN) đến năm 687 (TCN), trị vì được 92 năm.

16- Chi Tân: Hùng Tạo Vương húy Đức Quân Lang, sinh năm 740 (TCN) lên ngôi năm 53 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài từ năm 687 (TCN) đến năm 595 (TCN), trị vì được 92 năm.

17- Chi Nhâm: Hùng Nghi Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605 (TCN), lên ngôi 9 tuổi, chi này không rõ mấy đời vua, đều xưng hiệu Hùng Nghi Vương, từ năm 595-337 (TCN) trị vì được 258 năm.

18- Chi Quý: Hùng Duệ Vương húy Huệ Vương, sinh năm 350 (TCN) lên ngôi 14 tuổi, chi này có 3 đời vua, trị vì được 79 năm, từ năm 337 (TCN) đến năm 258 (TCN). Ngang thời nhà Đông Chu.

Thời Hùng Vương tổng cộng 18 Chi, tài liệu đã xác định trong khoảng thời gian dài 2.622 năm, gồm có 47 đời vua. Như vậy tính trung bình, một đời vua trị vì khoảng 55 đến 56 năm (2622/47), có đầy đủ tính thuyết phục.

Cung kính “Quốc Tổ Hùng Vương”:
QUỐC gia gầy dựng, thật gian nan
TỔ phụ sửa sang, mở bản làng
HÙNG cứ phương Nam cương thổ đẹp
VƯƠNG triều gìn giữ, nước huy hoàng (NLY)

*- Thiết nghĩ: Quốc tổ Hùng Vương đã dựng nước và giữ nước Văn Lang (VN) dài 2.622 năm, như vậy triều đại vua Hùng là dài nhất, so với các triều đại VN nói riêng và cả thế giới nói chung.

Huyền sử Hùng Vương, có màu sắc huyền thoại, nhưng đã được phản ánh và xác thực qua: Cổ sử, văn hóa dân gian, khảo cổ học, đủ để tạo thành hiện thực của lịch sử đầy tính thuyết phục. Và hình thể núi rừng, ruộng rẫy, bản làng... đã xây dựng hay sang sửa, và phát triển, nếu nhìn ngược dòng thời gian đã hiện diện thực sự của một quốc gia Văn Lang.

Ngày nay (2012), đất nước VN đang bị Tàu cộng gặm nhấm: ải Nam Quan, thác Bản Giốc, vịnh Bắc bộ... chúng còn muốn xâm chiếm toàn nước VN. Trong khi đấy, một đàn “Con Rồng, Cháu Tiên” lại phải ly hương sống xa xăm cố quốc, đã đằng đẵng ba thập niên qua, biết bao lăn lộn và nhọc nhằn trong thăng trầm của cuộc sống xa quê; đã có nhiều người Việt lo lắng ưu tư cho tiền đồ tổ quốc. Trong khi đó, 85 triệu Đồng bào trong nước, có người ở vùng sâu vùng xa vẫn chưa biết trước nạn sắp bị xâm lăng bởi Tàu cộng. Đồng bào ở các thị thành biết rõ tổ quốc lâm nguy, đã liên tục lên tiếng phản đối hoặc biểu tình chống nạn xâm lăng của Tàu cộng. Oái oăm thay, lại bị chính quyền, công an đàn áp, trù dập là do từ đâu???!

Cảm niệm: HỒNG BÀNG

Hồng Bàng quốc tổ, hiệu Hùng Vương
Ồ khắp dân gian, lập miếu đường!
Nếp sống rỡ ràng, nên giữ nếp
Gương lành sáng sủa, phải noi gương
Bộn bề việc nước, không ngơi nghỉ
Ào ạt ngoại xâm, chẳng nhịn nhường
Nhắn nhủ đồng bào dòng giống Việt
Gia phong, quốc thịnh phải lo lường.

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.