Hôm nay,  

Quán Bên Đường

13/08/201200:00:00(Xem: 168575)
Tác giả sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị băt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang.Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị băt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư ở Mỹ và hiện là cư dân HoustonTexas. Ngô Văn Thu tham dự viết về nước Mỹ từ 2009 và sau đây là bài viết thứ tư của ông, về những “quán bên đường” vòng quanh thế giới, trong số này có cả “quán giữa đường Độc đáo hơn là quán “giữa đường” trên đỉnh tháp Eiffels giữa đại lộ Champs Églysées Paris -Pháp, như hình ảnh tác giả cho thấy.

Quán bên đường có thể chỉ là mái lá đơn sơ nghiêng theo bờ đường, hay một mái tranh ẩn mình dưới tàng cây cổ thụ đầu làng, hoặc quán chỉ là một tấm vải vá víu, giăng kéo bốn góc được chống đở bằng cành cây khô làm trụ, đứng cạnh bến đò. 

Khá hơn, quán bên đường cũng có thể là một căn chòi có khung dàn, có che chắn phên lác để tránh mưa che nắng. Chủ các quán bên đuờng kiểu nầy là các cụ có tuổi. Khó tìm được nơi đâu có cô chủ quán bên đường xinh đẹp bán chè tươi như” cô hàng chè xanh” đã làm say đắm lòng người mà nhạc sĩ Canh Thân đã mô tả.

Khách của quán bên đường có thể là một lử hành phương xa tìm về cố hương dừng chân tạm nghỉ, hoặc khách là đoàn lái buôn gánh gồng từ làng nọ qua làng kia chờ đò sang sông. Quán bên đường ngày xưa nay chỉ còn là ký ức…

Thời gian đi tới, quán bên đường ngày nay tại Việt-nam được biến đổi theo kinh tế thị trường. Quán gần tỉnh lỵ thì chuyên bán sản phẩm điạ phương, Xoài, mít, cam, quýt, bưởi, mận. Thậm chí còn bán cả rượu hồng đào, rượu Gó Đen nữa. Khách của nhữnh quán nầy là kẻ hiếu kỳ, muốn tìm chút hương đồng gió nội,và cơn chếnh choáng cuả rượu Gò Đen để biết “trời đất lăng quay” thế nào.

Quán bên đường còn đi xa hơn tình làng nước là quán bán “cơm tù”. Xe khách đổ khách vào quán theo thoả thuận trước, khách vào quán phải ăn cơm của quán, nếu ai không ăn hoặc mua hàng trong quán thì bị” ăn đòn”vì quán mất thu nhập không đủ sở hụi để chung chi cho kẻ đầu gấu. Quán của thời đại mất nhân tính.
vb2_vvnm_quan_ben_duong
Các quốc gia khác cũng có quán bên đường. Theo đường bộ từ biên giới Việt-Cambodia hay campuhia (xin đừng gọi Miên là một sự si nhục với dân tộc họ). Khởi điểm từ Mộc Bài (Tây Ninh VN) Đi sâu vào tỉnh Siem-Riep. Quán bên đường ở Campuchia bán Chim chiên, chuột chiên, Dế chiên, kiến chiên và đường Thốt Nốt đậm đặc để khách làm quà. Có quán treo cả đầu lâu lũng lẳng trông thật ghê rợn. Chủ quán mang theo, không để bán, chỉ để tõ bày tình yêu thương với nguời thân đã bị Pôn Pốt sát hại năm nào. (Tỉnh Siem-Riep là quê hương của sát thủ Pôn Pốt). Sự nghèo nàn nay vẫn còn phơi bày trên quê hương quá đọa đày nầy trông thật mũi lòng!

Nhưng bù lại, họ được tự hào về đền đài miếu mạo cổ của họ. Liên hiệp Quốc đã công nhận hai đền Angkor Wat và Angkor-Thum là di sản văn hoá của thế giới. Khách thăm viếng khi ra về, đều in đậm lòng khâm phục và sự ngưởng mộ cuả những kiến trúc cổ quá ư nghệ thuật độc đáo nầy.

Quán bên đường dẩn xuống ngỏ cụt Biển Hồ Campuchia thật èo ụt, chỉ có mì gói và vài chai nước tương bán để khách làm quà cho người đồng chủng Việt nam của ta, nhưng nghiệt ngã thay số phận họ lại long đong rong rủi trôi dạt qua đây, không tổ quốc để gọi, dù họ là người Việt nam, chết không địa tán vì chung quanh là nước. Gia đình đùm túm trên con thuyền mong manh trôi dạt theo cơn thuỷ triều để sống còn.

Thảm thương thay họ chỉ nhận được chút quà hẩm hiu nói trên như số phận cuả họ, đưá bé lớn lên như cây khô héo giữa đồng vì thiếu nước, chúng thiếu dinh dưỡng vì xa làng xóm, xa phố thị và xa hẳn ánh sáng văn minh bên ngoài rọi chiếu vào.

Thăm họ để ngậm ngùi thương cảm đời họ, và thấy rằng quanh ta còn có những mảnh đời khốn khổ cần lòng từ tâm cứu trợ cuả mọi ngưòi hướng về họ.

Quán bên đường ở Thái-Lan thì bán sản phẩm riêng của mình như: Sầu Riêng giá rẻ, khách ăn tại chổ không ngon không tính tiền. Nhưng khi đã ăn rồi, dầu ngon hay dỡ khách cũng phải móc ví, nếu không muốn bị mang tiếng là “ăn quỵt”Quán còn bán cá sấu con, trăng con nữa. Ai muốn có bóp, ví da hàng thiệt mua về nuôi 5, 6 năm lấy da cũng không muộn ! Có quán chỉ bán mỗi sản phẩm dầu gió Thái-Lan, và một lời cầu nguyện cho khách đi đường được bình an qua sợi chỉ đỏ cột quanh tay, khách tùy hỷ cho bao nhiêu cũng không phiền lòng.

Tâm lý, đường xa vạn dặm biết rủi ro gì sẽ xãy ra. Nhận được lời cầu nguyện của người thiện tâm, ai nỡ lòng nào hẹp hòi mở ví.

Quán bên đường ở Mã-Lai bày bán cơm gói, mấy con cá nục kho(mùi còn tanh) lát trên mặt cơm, không có muổng,nĩa.Ăn bốc là truyền thống của họ. Thậm chí có quán còn bán cả kinh cầu nguyện và khăn đen trùm đầu(ngày phải cầu kinh 5 lần theo luật của đạo Hồi).

Cũng có một khu quán bên đường đồ sộ khác (như khu rest area bên Mỹ) có cả đền thờ để khách cầu kinh, có thương xá, có tiệm ăn, có khu bán đồ lưu niệm và khu nghỉ ngơi cho khách qua đêm. Nhìn sinh hoạt nhộn nhịp, cách tổ chức tinh vi cho thấy một đất nước trên đà tiến bộ theo thời đại mới.

Đặc biệt quán bên đường ở Singapore cũng tăng trưởng theo đà văn minh cuả đất nuớc nổi tiếng giàu đẹp và sạch sẻ. Một đất nước của màu xanh, toàn đảo được phủ kín bởi hằng hà cây xanh theo phong thủy họ tin tưởng, màu xanh là màu của hy vọng. Nhưng trong cái linh hoạt xinh tươi ấy, bên ngoài cũng có quán bên đường. Quán được tổ chức gọn nhẹ, bán hàng trên xe bus xuyên quốc gia Singapore – Malaysia theo nhịp lăng của bánh xe. Tài xế kiêm luôn chủ quán, bán để kiếm thêm lợi tức, để quên đường dài!. Quán chuyên bán đồ lưu niệm. Hình tượng sư tử phun nước rất đẹp, là biểu tượng quốc gia đắc ý nhất của nước Singapore. Giá chỉ bằng ¼ trong các tiệm lớn. Xe bus Malaysia chạy xuyên bang, xuyên quốc gia cũng bán hàng theo kiểu nầy. Malayia tự hào với toà tháp đôi twin town. Qùa lưu niệm cũng làm theo hình tượng trên.

Xa hơn bên trời Âu là quán bên đường ở biên giới Pháp-Đức. Quán được xây tên ngọn đồi mờ ão của sương mù se lạnh. Ngày trước, Việt Nam ta cũng có quán kiểu nầy trên đỉnh đèo Hãi Vân Đà-nẵng. Vì thời ấy đường đèo còn nhỏ xe chỉ chạy một chiều. Xe đò từ Đà-nẵng ra Huế khi lên đến đỉnh đèo Hãi Vân phải dừng lại đợi xe từ Huế vào, đỉểm giao thoa gặp nhau tại đây. Trong hai giờ chờ đợi để được ”xổ đèo”, khách lãng đãng nhìn trời mây nước, nhìn đường đèo bò quanh sườn núi, nhìn đoàn tàu hõa phun khói nặng nề chạy xình xịch, nhìn sóng bạc đầu đuổi nhau ngoài biển Đông. Phong cảnh thật nên thơ hưu tình, có khác nào chốn bồng lai….

Trong khi đó các món ăn Huế-Quảng gặp nhau trên đỉnh đèo, bánh bèo, bánh nậm, mỳ Quảng, bún giò Huế tõa hương ngây ngất, trong cái lạnh của núi đá toã ra, cái lạnh cuả gió biển Đông lùa thốc vào khiến bụng cồn cào, khó ai có thể cầm lòng không vào quán thưởng thức hương vị quê hương của hai vùng Huế-Quảng.


Nay cảnh cũ còn đó, nhưng ngưòi xưa lòng buồn tênh, chịu cảnh ly hương sầu cố quốc, đang có mặt tại biên giới Pháp-Đức nầy. Tại đây khách phải vào quán ăn uống thật trịnh trọng, có bồi bàn phục vụ theo văn hoá ẩm thực cuả người Âu, cho dù khách có bận rộn giờ giấc cũng phải theo tập tục nầy, không có phong cách ẩm thực “fast food to go” kiểu Mỹ. Vì theo văn hoá ẩm thực “fast food to go”thì làm sao thưởng thức được giây phút ngắm nhìn “mây lang thang” lướt qua quán, tai nghe suối róc rách dưới chân đồi, để còn nói lời yêu thương, hay lời từ biệt trước lúc chia tay kẻ ở người đi tại biên giới nầy... Thật đúng với phong hóa lãng mạn của người Âu. Dù ai khó tính cũng đồng điệu gọi tên quán là”lưu khách quán”.

Độc đáo hơn là quán “giữa đường”.Quán được xây nghênh ngang giữa đại lộ mà hợp pháp, được ca ngợi, được nổi tiếng khắp thế giới. Khách muốn vào quán có lúc phải sắp hàng chờ đợi hằng giờ. Quán có an ninh bảo vệ, có xe cứu thương chờ chực, có cả cờ xí treo rợp trời vào các ngày đại lễ. Đó là quán coffee trên đỉnh cuả tháp Eiffels giữa đại lộ Champs Églysées Paris -Pháp.

Khách vào quán phải mua vé lên tháp, mua vé uống coffee. Coffee thơm lừng mùi Pháp! (coffee rang với beurre bretel chính hiệu). Uống coffee tại đây còn thú vị được phóng mắt nhìn xuống thấy toàn cảnh cuả thành phố Paris, thấy xa xa là vườn Luxemburg, lá vàng hôn tượng đá của muà Thu Paris, và hơn nữa còn thấy cả “ga Lyon đèn vàng, cầm tay ta muốn khóc, biết nói gì khi chia ly!” (Cung trầm Tuởng) thử hỏi còn gì lãng mạn và trử tình bằng!

Bên cạnh quán còn có phòng trưng bày hình tượng các danh nhân thế giới bằng sáp. Nào là đại văn hào Victor Huggo, nhà thơ La Martin, nhà bác học Albert Einstein và Thomas Edison và còn nữa, họ được trang phục đúng mốt của thời đại mà họ đang sống, họ như đang họp mặt bàn bạc nhiều chuyện văn học cuả thế giới và sự tiến bộ khoa học cuả nhân loại. Trông thật linh động và ngoạn mục, không phí công chờ đợi lâu dài khi lên quán. Quả là quán cuả thời đại trăng sao giao tình trên chín từng mây…

Thế nhưng, không đâu “đẹp” bằng quán bên đường tại quê nhà! Quê nhà đây là Hoa-Kỳ, là chốn dung thân yên ấm của người tỵ nạn cộng sản chúng ta! Không biết đây có phải là một sinh hoạt văn hóa đặc biệt của Mỹ hay không mà quán chỉ xuất hiện vào các mùa nghỉ học của học sinh như: Spring break hay vacation mà thôi, đặc biệt là quán chỉ mọc lên ở khu nhà giàu cuả Mỹ, nhà giá bạc triệu. Có water fall, có hoa nước phun lên giữa hồ.

Quán lập nên không có chủ đích kiếm gạo chống đói, vì quán chỉ bán duy nhất là món nước giải khát lemonate sweet, giá mỗi ly chỉ 50 cents, với khạp nước 2 gallons, giá vốn ước chừng 40 dollars. Quán không mái che, không ghế ngồi rườm rà, đúng là quán “dã chiến, sáng nỡ tối tàn”. Chủ quán là cô bé Nancy 9 tuổi, có đôi mắt trong xanh như mắt chú mèo con, khuôn mặt mủn mỉm như quả táo Nhật. Phụ bán là Davis 7 tuổi, thân hình dong dong cao gầy nhanh lẹ và woody 5 tuổi độ tuổi thèm kẹo chocolate. Trong khi Nancy đang pha chế thì Davis dọn bày hàng, còn nhóc tì woody 5 tuổi cầm bảng quảng cáo đứng xa xa mời khách vào quán như kiểu mời rữa xe (car wash) trông thật nhịp nhàng ăn ý, rất dể thương. (có hình nhưng không được cha mẹ các em cho post lên). Nhìn cảnh nầy gợi cho ta niềm vui lâng lâng trong lòng và tự hỏi con nhà ai mà ngoan thế? Với tuổi đời như hoa vừa chớm nỡ, còn ham vui chơi sao không tung tăng với bạn bè mà lại chiụ đứng quán nơi đây?

Hỏi ra mới biết. Bé gái Nancy 9 tuổi có cô bạn tên Chriscomb cùng tuổi, cùng lớp, bỗng dưng nghỉ học. Thoạt đầu Nancy tưởng Chriscomb bận theo gia đình đi xa. Nhưng không phải vậy. Tin buồn ập đến! Chriscomb bị bệnh, căn bệnh ngặt nghèo gây khổ đau buồn thảm cho bản thân và gia đình. Đó là bệnh ung thư máu. Gia đình Chriscomb đang trông chờ những ân nhân có lòng từ tâm mạnh dạn hiến tũy để cứu chửa. Thế nhưng đã bao lâu tìm kiếm mỏi mòn vẫn vô vọng! Mấy ai có cơ hội ngàn vàng match tũy để được cứu sống. Chriscomb ở trong sự bất hạnh đó, thân hình sung mãn đầy sức sống cuả tuổi trẻ đang lên ngày nào nay khô héo dần, như ngọn đèn hết dầu sắp tắt. Nancy đau buồn nhìn bạn hoạn nạn mà không cách gì giúp được, vì Nancy còn quá nhỏ không đủ tuổi theo quy định để tình nguyện cho thử nghiệm hiến tũy. Tình thương bạn như thôi thúc réo gọi, mỗi khi vào lớp thấy bên cạnh mình vẫn còn vắng bóng Chriscomb. Phải làm cái gì để giúp bạn chứ? Nancy tự hỏi và quyết tâm tìm cách.

Tuổi thơ, tuổi của thần tiên mơ mộng chỉ biết rong chơi trong các ngày hè, bắt bướm hái hoa là thú vị. Thế mà Nancy đành hy sinh vì bạn, lập quán bên đường cùng với hai em đứng bán kiếm tiền(funrising) giúp bạn. Hẳn nhiên tiền kiếm được chẳng là bao so với sự tốn kém mà gia đình Chriscomb phải gánh chịu, nhưng ý nghĩa cao cả đuợc gói ghém trong việc làm đầy tình thương và lòng cao thượng của chị em Nancy dành cho bạn Chriscomb.

Đất nước Hoa-Kỳ có truyền thống bảo trợ, đùm bọc (trong đó có chúng ta) và cứu đói ở hầu hết các nước trên thế giới thông qua các hội từ thiện. Cơn sóng thần Sunami xãy ra ở Indonesia năm nào. Hoa-Kỳ là quốc gia đóng góp cưú trợ trên 200 triệu dollars chưa kể tốn kém do chiến hạm, máy bay chuyên chở hàng cưú trợ vào ra hơn tháng trời. Đặc biệt được dẫn đầu bởi hai vị cựu tổng thống Bill Clinton và Tổng thống Bush cha, xông xáo lao vào công tác nhân đạo nầy

Gương hy sinh đời sống riêng tư cuả nhị vị tổng thống, tính bằng hiện kim lấy gì sánh được. Nhưng họ đã để lại cho thế hệ mai sau lòng cảm phục qúy trọng và gương sáng để hậu thế noi theo.

Nancy, Davis, Woody đã theo buớc chân cha ông, đang thể hiện tình thương cuả mình qua nghiã cử bán quán gây qủy giúp bạn, chịu hy sinh thú vui riêng tư của mình để góp tâm huyết cứu bạn. Cha mẹ của Nancy có thể bỏ tiền ra giúp, nhưng người Mỹ có cách giáo dục con em họ phải tự lập, phải tự mình thể hiện việc làm của mình qua hành động trước, để con trẻ thấy giá trị việc làm cuả mình rồi sau đó mới tiếp tay.

Khác với quán cao ngất ở tháp Eiffels Paris, quán đồ sộ bên Malaysia, ”lưu khách quán” bên Đức. Quán lập nên chỉ để kinh doanh tìm giàu sang lợi lộc. Quán nhỏ bên đường ở Mỹ của chị em Nancy ngược lại, tuy nhỏ bé trơ ra giữa trời, thế nhưng ý nghĩa cuả quán đã bay vút cùng tầm cao cuả lòng nhân ái con người. Quán đón nhận nhịp đập thổn thức từ trái tim cuả khách qua đường, gom tiền lẻ để xây tình thương, xây tình người.

Thật đáng khâm phục dành cho các bé Nancy, Davis và woody. Dù quán không tên, nhưng ai muốn gọi quán bằng tên “ba quả tim vàng, ba trái táo, ba con mèo ngoan” đều đáng được trân trọng cả./.

Ngô Văn Thu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,076,140
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.