Hôm nay,  

Tỏi, Gia Vị, và Vị Thuốc

11/02/201200:00:00(Xem: 14570)

Tỏi, Gia Vị, và Vị Thuốc

toi__kyolic-large-content: Thuốc tỏi.

toi_ruou_toi_ngam_4_nam-large-content: Rượu tỏi

Nguyễn Thượng Chánh, DVM & Dược Sĩ Nguyễn Ngọc Lan

Tỏi (ail, garlic, allium sativum) là một món gia vị được dùng rất rộng rãi trong ẩm thực...

Pha nước mắm, ướp thịt, ướp cá, hay chiên, xào, kho, nướng, vân vân muốn cho ngon và cho thơm thì không thể nào thiếu tỏi được hết. Tỏi cũng còn được ngâm giấm làm dưa chua ngọt để chúng ta nhâm nhi chơi trong ba ngày Tết. Có người lại chỉ thích ăn tỏi sống để có thể tận hưởng trọn vẹn cái hương vị vừa dòn dòn vừa cay cay vừa nồng nồng của nó mà thôi.

Bên cạnh những ích lợi về mặt dinh dưỡng, tỏi còn được sử dụng như một vị thuốc để đề phòng và để trị một số bệnh tật nữa.

***

Con người đã biết dùng tỏi để trị bệnh từ bao giờ?

Theo tài liệu, tỏi đã được sử dụng để trị bệnh từ 4.000-5.000 năm về trước tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hy Lạp, La Mã, Ai Cập

Vào năm 1858, Pasteur đã chứng minh được tính kháng khuẩn (antibacterial) của tỏi.

Trong đệ nhất thế chiến, người ta đã biết dùng bông gòn nhúng vào nước tỏi và đắp lên các vết thương để ngừa nó không làm độc sinh ra hoại thư (gangrene). Quân đội Nga cũng đã từng sử dụng nước tỏi để chữa trị các vết thương trong đệ nhị thế chiến vừa qua.

Tại Việt Nam từ lâu, tỏi vẫn được xem là một vị thuốc vườn rất hữu ích để trị bá bệnh. Tứ thời cảm mạo, ho hen, nghẹt mũi hay bị xổ mũi, đau bụng tiêu chảy, xổ lãi, bị rắn rết cắn, nhức tai, v.v thì cứ lấy tỏi ra chế biến để mà ăn mà uống, mà chà xát vào da, mà nhỏ vào mũi hoặc vào tai.

Từ 30 năm nay, kỹ nghệ thực phẩm và dược phẩm thiên nhiên cũng đã tung sản phẩm tỏi ra thị trường và nhờ khéo quảng cáo nên họ đã gặt hái được nhiều kết quả rất mỹ mãn.

Ngoài ra, một số người sống ở các vùng nông thôn xứ Tây Phương vẫn còn mang nặng đầu óc dị đoan, nên họ thường tin tưởng rằng treo các xâu tỏi trước cổng nhà là có thể trừ được tà ma như dracula hay vampire

Hoạt chất của tỏi

Tỏi có chứa nhiều hợp chất sulfur thí dụ như ajoene, S-allyl cysteine và thiosulfinates trong đó allicin được xem như hoạt chất chính của tỏi. Allicin được tạo ra khi chất alliin (là một amino acid có sulfur) tiếp xúc với enzyme allinase lúc tỏi được nhai, bằm nhỏ hay được nghiền nát. Chất allicin tạo mùi 'hôi' đặc biệt của tỏi. Allicin còn được xem như một chất kháng sinh thiên nhiên.

Hơn nữa, tỏi còn chứa nhiều chất chống oxyt hóa (antioxidants) rất tốt để trung hòa các gốc tự do (free radicals) là những chất làm tổn hại đến các tế bào.

Dùng tỏi để phòng bệnh gì?

Phía giới Đông y và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên, tỏi được dùng để phòng và trị rất nhiều bệnh thông thường như: làm tăng sức miễn dịch, ho hen cảm cúm, đau bụng, tiêu chảy, kiết lỵ, nhiễm trùng, bệnh đau bao tử, các bệnh nhiễm nấm (như bệnh chân voi và những bệnh do nấm Candida albicans), tình trạng bị mụn nhọt ghẻ lở, giúp máu huyết lưu thông được dễ dàng, xổ lãi, trị rắn rết cắn, đau nhức lỗ tai, giúp long đàm dễ thở, trị phong thấp, viêm khớp, ngừa bệnh tim, ngừa tai biến mạch máu não, hạ cholestérol, hạ đường máu, ngừa dị ứng và một vài loại cancer, v.v

Phía giới Tây y cũng đã thực hiện rất nhiều công trình nghiên cứu về tỏi, và họ đã đưa ra kết luận là tỏi có thể có một ít tác dụng tốt trên sức khỏe mặc dù các tác dụng này còn rất khiêm tốn, chớ không phải như phía giới Đông y và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên thường hay quảng cáo quá đáng

Một số nhận xét của các nhà khoa học về tác dụng của tỏi:

+ ngừa sự kết tụ tiểu cầu máu (antiplatelet);

+ ngừa máu bị đóng cục;

+ giúp tăng sức đàn hồi (elasticity) của động mạch và giúp máu được loãng hơn, lưu thông được dễ dàng;

+ chứa nhiều chất chống oxid hóa rất tốt cho sức khỏe;

+ có ít nhiều tính năng ngăn chặn sự xuất hiện của một vài loại ung thư (antineoplastic effect), chẳng hạn như ung thư ruột, ung thư tiền liệt tuyến. Còn với ung thư dạ dầy, tuy kết quả các thí nghiệm lâm sàng đều âm tính nhưng một số nhà nghiên cứu vẫn tin tuởng rằng tỏi vẫn có ích để ngừa sự xuất hiện của loại ung thư này nhờ vào khả năng kháng với vi khuẩn Helicobacter pylori đặc biệt sống trong bao tử. Được biết vi khuẩn nầy là tác nhân của bệnh loét dạ dày thường dẫn đến ung thư bao tử;

+ giúp tăng cường sức miễn dịch, ngừa cảm cúm;

+ ngừa nhiễm trùng nấm các loại kể cả nhiễm nấm gây nên bệnh chân voi (athlete's foot hay tinea pedis) thường thấy xảy ra tại những nơi nóng và ẩm như các phòng thay quần áo ở hồ bơi. Thông thường bệnh chân voi được chữa trị bằng thuốc kháng nấm terbinafine, nhưng thí nghiệm dùng chất trích từ tỏi có chứa hoạt chất ajoene cũng có thể chữa hết bệnh sau hai tháng.

+ Còn vấn đề ngăn ngừa muỗi mòng chích, tỏi không mấy hữu hiệu; ở bệnh tiểu đường, các thí nghiệm cho biết là tỏi chỉ làm giảm đường lượng một cách không đáng kể; cũng như trong sự làm giảm cholestérol và triglyceride hay làm giảm huyết áp thì công dụng của tỏi cũng không đáng kể nếu không nói là không rõ rệt!

Còn nhiều trở ngại để xác định chỗ đứng của tỏi trong trị liệu

Mặc dù rất nhiều công trình khảo cứu khoa học đã được thực hiện về tỏi, nhưng cũng còn nhiều trở ngại nhất là việc thiếu thí nghiệm lâm sàng (clinical assay) cũng như hoạt chất của tỏi khó được định chuẩn (standardize) một cách dễ dàng và chính xác, bởi lẽ có tỏi non và có tỏi già cũng như tỏi dùng trong các cuộc thí nghiệm có thể ở dưới nhiều dạng khác nhau!

Các phương pháp và quy trình thí nghiệm cũng chưa được đồng nhất với nhau, vì vậy chúng thường cho ra những kết quả khó tiên liệu trước được!

Các nhà khoa học trên thế giới cũng chưa hoàn toàn thống nhứt ý kiến với nhau, và một số kết quả thí nghiệm về tỏi nên vẫn còn nằm trong vòng tranh luận!

Tỏi có thể gây ra một vài phản ứng phụ

Các phản ứng phụ đều rất nhẹ.

Trước hết là mùi hôi thoát ra từ miệng, từ hơi thở, từ mồ hôi, từ da và cả lúc đi cầu nữa nếu chúng ta ăn nhiều tỏi và ăn quá thường xuyên.

Ăn nhiều tỏi sống, đôi khi chúng ta có thể cảm thấy hơi khó chịu trong bao tử, xót ruột, hoặc ói mửa, tiêu chảy...

Nước tỏi tươi dùng ngoài da có thể gây dị ứng như làm đỏ da hay phòng da ở một số người.

Nên xúc miệng thường xuyên hay nhai ngò hoặc kẹo chewing gum có thể giúp hơi thở bớt hôi mùi tỏi được một phần nào.

Cẩn thận khi uống thuốc tỏi

Không nên ăn quá nhiều tỏi hoặc uống thuốc tỏi nếu bạn đang bị chứng bệnh về máu huyết hay bạn đang chuẩn bị để đi giải phẫu trong vòng 2 tuần sắp tới, vì tỏi có khuynh hướng làm loãng máu và do đó ảnh hưởng đến thời gian làm đông máu.

Không nên lạm dụng tỏi nếu bạn đang xài các thuốc trị bệnh tiểu đường chẳng hạn như các loại thuốc uống làm hạ đường huyết hay thuốc chích insuline (tỏi có thể làm tăng tác dụng và làm thay đổi số lượng thuốc đang được sử dụng) hay các thuốc trị Sida hoặc bạn đang có bệnh thuộc về đường tiêu hóa.

Không nên sử dụng tỏi sau khi được ghép bộ phận vì tỏi có khuynh hướng kích thích sự loại bỏ bộ phận vừa mới được ghép vào.

Các bà mẹ cũng cần nên thận trọng, vì hoạt chất của tỏi có thể tiết qua sữa mẹ và làm cho các trẻ sơ sinh bị đau bụng.

Tỏi có thể tương tác với những loại thuốc nào?

Các dược phẩm và các loại thuốc thiên nhiên sau đây có thể bị làm thay đổi tác dụng hoặc tăng hoặc giảm, nếu được dùng cùng một lúc với tỏi:

*/ Thuốc trị nấm Ketoconazole (Nizoral) và Itraconazole (Sporanox);

*/ Thuốc ngừa thai;

*/ Thuốc kháng đông và thuốc ngăn cản sự kết tụ máu như Warfarin (Coumadin), Clopidogrel (Plavix), Ticlopidine (Ticlid), Enoxaparin (Lovenox) và Heparin vì có thể kéo theo nguy cơ bị xuất huyết;

*/ Các thuốc trị đau nhức thuộc nhóm NSAIDS (nonsteroidal antiInflammatory drugs) như Naproxen (Naprosyn, Aleve, Anaprox), Ibuprofen (Advil, Motrin)

*/ Các thuốc trị bệnh tim thuộc nhóm Calcium channel blockers như Diltiazem (Cardizem), Amlodipine (Norvasc), Verapamil (Chronovera, Isoptin), Nifedipine (Adalat)

*/ Các thuốc ngừa sự loại bỏ bộ phận ghép như Cyclosporine (Neoral)

*/ Các thuốc trị dị ứng như Fexofenadine (Allegra);

*/ Các loại thuốc thiên nhiên có tính làm loãng máu như capsicum, ginkgo, angelica, nhân sâm (panax ginseng), horseradish, củ hành, nghệ (turmeric), cam thảo (Licorice )

*/ Vitamine E dùng với liều lượng quá cao;

*/ Thuốc trị cao áp huyết như Losartan (Cozaar);

*/ Các thuốc kháng siêu vi antiviral như Saquinavir (Fortovase, Invirase), Ritonavir (Norvir), Nevirapine (Viramune)

*/ Các thuốc trị cancer như Vincristin (Oncovin), Etoposide (Vepesid), Paclitaxel (Taxol)

Các dạng tỏi dùng để phòng bệnh theo Passeport Santé.net

Trong thực tế rất khó ấn định được liều lượng hữu hiệu của tỏi dùng để phòng bệnh hay để trị bệnh.

Vì thế, chúng ta nên cẩn thận và tuân theo lời chỉ dẫn ghi trên hộp thuốc.

Dễ nhất là ăn tỏi sống, mỗi ngày ăn 2 tép. Tỏi sống tuy có trở ngại là làm cho hơi thở hôi, nhưng ngược lại, nó có tính sát trùng và kháng khuẩn cao hơn tỏi chín.

http://www.passeportsante.net/fr/Solutions/PlantesSupplements/Fiche.aspx?doc=ail_ps#P41_2233

*Dầu tỏi (huile d'ail, distillation à la vapeur d'eau): 0.5-1gr/ngày

*Tỏi khô (ail sèché): 0.5-1gr/ngày

*Rượu tỏi (teinture 1:5, 45% éthanol): uống 6ml-12ml chia làm 3 lần/ngày

*Bột tỏi khô (poudre d'ail déshydraté)

*Các chất trích được định chuẩn (extrait standardisé): mỗi gram bột tỏi chứa 1.3% chất alliine có tiềm năng tạo ra từ 3.6mg đến 5.4mg allicine). Uống từ 200-400mg 3 lần/ngày

Alliin is a sulfoxide that is a natural constituent of fresh garlic. It is a derivative of the amino acid cysteine. When fresh garlic is chopped or crushed, the enzyme alliinase converts alliin into allicin, which is responsible for the aroma of fresh garlic (Wikipedia)

*Tỏi dạng thuốc mỡ (crème d'ail, garlic cream): có hoạt chất ajoene 0.4%-1%. Dùng bôi thoa ngoài da để trị bệnh nấm tinea.

*Tỏi cô lãnh (ail cryogenique, cryogenic garlic): để giữ cho phẩm chất được tốt, chất trích của tỏi được làm cô lãnh lyophylisation, cryodessication ở một nhiệt độ thật thấp (trừ 73 độ C hay trừ100 độ F) trong môi trường chân không.

Tại Canada, tỏi cryogenic được định chuẩn hóa và có tiềm năng (allicin yield, allicin potential) tạo ra từ 900micrograms (mcg) đến 4200mcg allicin cho mỗi viên tùy theo hiệu...

Tỏi viên không có chứa allicin mà chỉ có alliine và enzyme allinase. Chính phản ứng giữa 2 chất nầy khi tỏi tan sẽ tạo ra allicin.

Để tránh cho allinase khỏi bị acid của bao tử làm hủy hoại đi, nhà bào chế đã cho áo bọc viên thuốc lại (enrobage entérosoluble, enteric coated tablet) và nó chỉ tan ra khi nào vào đến ruột. Với phương pháp này, allicin được hấp thụ ngay tại ruột và nhờ vậy sẽ tránh được phần nào tình trạng làm cho hơi thở có mùi hôi tỏi.

Để tăng tính trị liệu, đôi khi người ta cho trộn thêm vào thuốc tỏi các loại thuốc thiên nhiên sau đây: ngò persil để khử mùi hôi của tỏi; échinacée + astragale để tăng thêm sức miễn dịch ngừa cảm cúm; lécithine để giúp làm tan mỡ và tan cholestérol trong máu; aubépine (hawthorn)+ ớt cayenne để giúp máu lưu thông dễ dàng; vitamin C hay nhân sâm ginseng hoặc gừng để tăng thêm sinh lực.

*Tỏi ngâm lâu tự nhiên (ail vieilli, kyolic garlic, aged garlic extract hay AGE): loại tỏi ngâm lâu tự nhiên, có được qua phương pháp nghiền cắt tỏi cho nhỏ và đem ngâm trong nước hoặc rượu trong một thời gian lâu khoảng hai năm.

Liều lượng: uống từ 600mg-900mg/ngày

AGE is, as the name suggests, produced by aging garlic: it's sliced, macerated and kept in water or alcohol for up to two years before being turned into a dietary supplement.

Thông qua quá trình nầy, chất alliine sẽ được chuyển hóa ra thành rất nhiều hợp chất khác liên hệ đến allicin (allicin related compounds), nhưng không hẳn là chất allicin thật sự.

Nhờ thế nó giúp hơi thở người sử dụng khỏi bị hôi mùi tỏi.

Mặc dù không phải allicin nhưng các hoạt chất khác của tỏi kyolic cũng có giá trị cao để bảo vệ sức khỏe, tuy nhiên chúng ta cần phải dùng đến những liều lượng thật lớn mới mong có được kết quả mong muốn.

Tỏi kyolic được bán dưới dạng viên và thường được kết hợp với vài loại thuốc thiên nhiên khác.

Sự lo ngại về chất lượng của thuốc tỏi bán trên thị trường

Nên để ý những câu ghi chú sau đây được ghi trên sản phẩm:

=Allicin rich (giàu chất allicin)

Câu này sẽ không có ý nghĩa gì hết nếu không có kèm theo số lượng tính bằng phần triệu của gram (micrograms) allicin mà nó tạo ra.

=Alliin amount (số lượng alliin)

Một vài loại sản phẩm có ghi nồng độ chất alliin chứa đựng trong viên thuốc, nhưng nên biết rằng chỉ có từ 10% đến hơn 50% alliin được chuyển ra thành allicin và sự chuyển hóa nầy còn tùy thuộc vào số lượng và hoạt tính của enzyme alliinase trong thuốc tỏi.

=Tỏi tươi và tỏi khô

1gram tỏi tươi có thể tạo ra khoảng từ 1.000 đến 3.333 micrograms allicin. Một gram tỏi khô trên nguyên tắc phải cho ra một số allicin gấp ba lần số trên. Tuy nhiên kết quả cũng còn tùy thuộc vào mức độ khô của tỏi.

=Các chiết xuất (extracts)

Ở thể này, trên lý thuyết thì số hoạt chất chứa đựng phải đậm đặc và nhiều hơn nếu so sánh với tỏi tươi hoặc với cả tỏi khô nữa. Tuy nhiên, trong thực tế phẩm chất của chất trích cũng không có mấy khác biệt gì với bột tỏi khô bình thường.

Chúng ta nên biết là trên thực tế thì hàng dỏm lại khó có thể tránh khỏi!

Và lại nữa số lượng hoạt chất ghi trên nhãn hiệu cũng chưa chắc là phản ảnh trung thực của món thuốc ở bên trong!

Kết luận

Tại Canada và Hoa Kỳ, thuốc tỏi chỉ được xếp vào nhóm thực phẩm bổ sung (dietary supplements) chớ nó không được xem như một dược phẩm theo đúng nghĩa, cũng vì thế mà thuốc tỏi không được kiểm soát chặt chẽ như thuốc Tây.

Đối với giới y khoa, thì họ cũng còn rất e dè và hoài nghi về tính năng trị liệu của tỏi.

Đối với một số người Việt Nam, thì họ lại xem tỏi như một “dược phẩm” nhiệm mầu và có vẻ rất tin tưởng vào tỏi trong việc phòng hay trị một vài chứng bệnh lặt vặt nào đó.

Sau 75, tại Việt Nam hầu như bất cứ bệnh gì, người ta cũng còn dùng đến tỏi để phòng hay để trị bệnh...

Có người còn chế ra món tỏi ngâm rượu để uống hằng ngày nữa, có hỏi họ thì họ trả lời là “uống thấy cũng đỡ lắm”.

Có người còn dám nói thêm rằng uống rượu tỏi mỗi ngày rất tốt cho sức khỏe và cho cái vụ múa lân nữa Đúng hay sai, làm sao mà kiểm chứng cho được!

Tỏi rất rẻ tiền, ít có phản ứng phụ, thì tại sao chúng ta không thử?

Hãy xem nó như một loại gia vị giúp tăng hương vị cho món ăn và cũng có thể có lợi phần nào cho sức khỏe của chúng ta nữa!

Nhưng cho dù bạn có ăn cả kí-lô tỏi đi nữa, mà không có một nếp sống quân bình lành mạnh thí dụ như: không bớt ăn thịt hay mỡ dầu; không bớt ăn ngọt hay mặn; không chịu ăn nhiều rau hay hoa quả; không bỏ thuốc; không bớt rượu hay cà phê; không chừa bỏ hay hạn chế ba cái vụ lăng nhăng này nọ; và sau cùng là không vận động hay thể dục thể thao thường xuyên; v.v thì chắc chắn tỏi cũng sẽ không có một giá trị nào cả để có thể cải thiện sức khỏe cho bạn được!

Lẽ tất nhiên, nếu trường hợp bị bệnh nặng như trong trường hợp bệnh cao máu hay tiểu đường, vân vân, thì dứt khoát là bạn cần phải sử dụng đến một vài loại thuốc Tây đặc trị nào đó mới mong có thể ổn định được sức khỏe của mình được vậy./.

Tham khảo:

-La vérité sur l'ail: Science et Avenir, Sept 2005

-EllenTattelman MD: Health effects of Garlic, Albert Einstein College of Medicine of Yeshiva Univ., Bronx New York

http://www.aafp.org/afp/20050701/103.html

-Product Review: Garlic Supplements. ConsummerLab.com

http://www.consumerlab.com/reviews/Garlic_Supplements/garlic/

-Jean Yves Dionne, Pharm: Ail, PasseportSanté.net

http://www.passeportsante.net/fr/Solutions/PlantesSupplements/Fiche.aspx?doc=ail_ps

-Josling P: Preventing the common cold with garlic

-Juliana Juhas, D.Pharm, Ph.D: Plants & Natural substances for Therapeutic Use. PharmEssor

-Natural Medicines, Comprehensive Database, Compiled by the Editors of Pharmacist's Letter & Prescriber's Letter, Sixth Edition, 2004 (Sách tham khảo của Dược Sĩ tại Hoa Kỳ và Canada) Natural Medicines comprehensive Database

http://naturaldatabase.therapeuticresearch.com/nd/Search.aspx?cs=&s=nd&pt=100&id=300

Montreal, Feb 11, 2012

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
Khi nói đến việc giữ cho xương khỏe mạnh, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến vitamin D, chất dinh dưỡng giúp cơ thể hấp thụ lượng canxi cần thiết để giúp cho bộ xương chắc khỏe. Nhưng dù rằng vitamin D đúng là một chất dinh dưỡng thiết yếu, trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy tầm quan trọng của các loại vitamin khác trong việc chống gãy xương (fractures) và bệnh loãng xương, hay bệnh xương xốp (osteoporosis).
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Hôm cuối tháng Hai vừa qua, Tòa Tối cao của bang Alabama phán quyết rằng: “Phôi đông lạnh là trẻ em.” Tuyên án này tuy chỉ có uy lực theo Hiến pháp và luật pháp ở Alabama, tuy nhiên, sự bắt đầu này tạo ra tiền lệ cho tất cả những vụ án vế sau của tất cả các bang khác và kề cả hiến pháp Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến thời kỳ cho phép phá thai. Nhiều người và nhiều cơ quan sẽ phải chịu trách nhiệm, sẽ bị trừng phạt nếu làm hỏng phôi thai, như một tội giết trẻ em. Phán quyết của Alabama, được công bố hôm thứ Sáu, bắt nguồn từ hai vụ kiện của ba nhóm cha mẹ đã trải qua thủ tục thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để sinh con và sau đó chọn đông lạnh số phôi còn lại. Giáo sư Nicole Huberfeld của Trường Luật Đại học Boston cho biết, đó cũng là một quyết định có thể gây ảnh hưởng lan rộng đến việc sử dụng các phương pháp điều trị sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Thử tưởng tượng rằng chỉ cần uống một viên thuốc là quý vị sẽ tràn trề năng lượng, da dẻ mịn màng, và tim mạch khỏe re? Các viễn cảnh hấp dẫn này vẫy gọi mãnh liệt mỗi khi chúng ta dạo quanh qua các quầy hàng bán các loại thực dược phẩm bổ dưỡng trong hiệu thuốc, từ các loại viên uống dầu cá (fish oil), bột collagen (collagen powder), kẹo bổ sung ma-giê và muôn hình vạn trạng các loại vitamin.
Hơn một thập niên từ sau cái chết bất ngờ của mẹ, Sehrish Sayani mắc chứng rối loạn tâm thần hậu chấn (PTSD). Suốt những năm đó, những cơn hoảng loạn dữ dội nhất đã giảm dần, nhưng các triệu chứng như nghi ngại thái quá (hypervigilance), trở nên đặc biệt nhạy cảm với một số yếu tố và những giấc ngủ chập chờn đã trở nên quen thuộc trong cuộc sống của cô.
Trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Hai Thành Phố (A Tale of Two Cities) của Charles Dickens, được xuất bản năm 1859 và lấy bối cảnh thời Cách Mạng Pháp, có đoạn viết: “Đó là thời đại tốt đẹp nhất, cũng là thời đại tồi tệ nhất, đó là thời đại của sự khôn ngoan, cũng là thời đại của sự ngu xuẩn.” Đại dịch COVID-19 cũng là một thời đại như thế. Một mặt, khoa học đã cứu sống được nhiều người. Chưa đầy một năm sau khi phát hiện virus, Hoa Kỳ đã tạo ra và thử nghiệm vắc xin, rồi cho sản xuất, phân phối và triển khai tiêm chủng hàng loạt miễn phí cho người dân. Ước tính vắc xin COVID đã cứu được ít nhất 3.2 triệu người chỉ riêng ở Hoa Kỳ. Những thành tựu này tạo ra hy vọng về việc chúng ta có thể nhanh chóng ứng phó với đại dịch trong tương lai.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.