* Lược ghi về giai đoạn hình thành:
Như đã trình bày trong số trước đến 1 tháng 5/1953, Pháo binh Quân đội Quốc gia Việt Nam có 5 tiểu đoàn Pháo binh, và đến tháng 9/1953, tất cả các tiểu đoàn Pháo binh hiện hữu được hệ thống hóa vào các liên đoàn bộ binh và sự xuất hiện của những liên đoàn này mà những tiểu đoàn được thành lập sau đó đã mang thứ tự khác với những tiểu đoàn tiền lập: tiểu đoàn Pháo binh số 22 được thành lập ngày 1 tháng 12 năm 1953 tại Huế đặt thuộc thành phần cơ hữu của Liên đoàn Bộ binh số 22 thành lập sau đó, các tiểu đoàn 33 và 34 được thành lập ngày 1 tháng 1/1954 tại Hà Nội đặt thuộc thành phần cơ hữu của các liên đoàn Bộ binh số 33 và 34.
Tính đến đầu năm 1954, Pháo binh Quân đội Quốc gia Việt Nam kể cả Pháo binh vị trí có quân số 4284 người, gồm 163 sĩ quan, 723 hạ sĩ quan và 3453 binh sĩ. Cũng kể từ 1-1-1954, trước một quân số Pháo binh ngày càng gia tăng, cần đến sự quản trị và huấn luyện một cách chu đáo, phái bộ Thanh tra Pháp do trung tướng Pennachioni chỉ huy đã đặt ra hai phòng thuộc lãnh vực thanh tra để chuyên trách về Pháo binh Việt Nam. Hai phòng đó là:
- Phòng tổ chức theo dõi những vấn đề liên quan đến việc tổ chức đơn vị, quân số, vật liệu, thăng thưởng và kỷ luật.
- Phòng nghiên cứu tổng quát theo dõi những vấn đề liên quan tới việc sử dụng, huấn luyện đơn vị và cá nhân, kinh nghiệm sử dụng vật liệu và kiểm soát việc điều hành. Trước đà tiến triển của các đơn vị Pháo binh và cũng để cho các tư lệnh Quân khu VN có thể sử dụng các đơn vị này một cách dễ dàng, ngày 3 tháng 5-1954, các bộ chỉ huy Pháo binh Quân khu được thành lập, nhưng vẫn do sĩ quan Pháp điều khiển vừa với tư cách cố vấn và vừa là chỉ huy trưởng Pháo binh cho các quân khu liên hệ. Tuy nhiên, đến cuối tháng 1/1955, tất cả các bộ chỉ huy Pháo binh cấp Quân khu đã được giải tán.
Trở lại với kế hoạch phát triển hệ thống tiểu đoàn Pháo binh thống thuộc liên đoàn Bộ binh, ngày 15 tháng 8/1954, Tiểu đoàn số 12 thành lập tại Nam Việt dành cho Liên đoàn 12 Bộ binh.
Do gặp trở ngại về tổ chức, cuối cùng chỉ có các Liên đoàn Bộ binh số 11, 12, 31, 32, 41 và 42 được thành lập, còn các Liên đoàn Bộ binh số 12, 22, 33 và 34 bị cắt bỏ, đứng trước tình hình này, trong số 4 tiểu đoàn Pháo binh tân lập, chỉ có 3 tiểu đoàn Pháo binh được duy trì, còn tiểu đoàn số 33 phải giải tán ngày 1-3-1955. Khi giải toán tiểu đoàn này, Pháo binh Quân đội Quốc gia Việt Nam lại tiếp nhận tiểu đoàn 3 Pháo binh RACM mà tất cả quân nhân hoàn toàn người Việt gốc Nùng, do Pháp chuyển giao ngày 1 tháng 4/1955, và tiểu đoàn này được cải danh thành tiểu đoàn 6 Pháo binh Việt Nam.
Về thành phần ban chỉ huy các tiểu đoàn Pháo binh, phải đến tháng 10/1954, các chức vụ tiểu đoàn trưởng Pháo binh mới bắt đầu giao cho các sĩ quan Việt Nam.
Về Pháo binh vị trí, 1954 sau khi Hiệp định Genève được ký kết (20-7-1954), các đơn vị thuộc hệ thống này lần lượt được giải tán và đến tháng 3-1955 thì sự giải tán này hoàn tất. Vừa lúc này, Pháo binh Quân đội Quốc gia Việt Nam tiếp nhận trung tâm huấn luyện Pháo binh Phú Lợi do Pháp chuyển giao (ngày 16-3-1955).
* Bộ chỉ huy Pháo binh và 9 tiểu đoàn Pháo binh đầu tiên:
Ngày 29 tháng 3/1955, một cơ quan thanh tra các binh chủng tại bộ Tổng Tham mưu được thành lập, trong đó có binh chủng Pháo binh. Chính cơ quan thanh tra này đã khai sinh ra bộ chỉ huy Pháo binh. Theo quyết định của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam lúc bấy giờ là thiếu tướng Lê Văn Ty (thăng trung tướng 10/1955, thăng đại tướng 12/1966), trung tá Nguyễn Xuân Trang được cử giữ chức thanh tra kiêm chỉ huy trưởng Pháo binh. Từ 29/3 đến cuối tháng 11/1955, văn phòng thanh tra Pháo binh trung ương đồng thời là bộ chỉ huy tạm thời của binh chủng, và phải đến đầu tháng 12/1955, bộ chỉ huy Pháo binh mới chính thức hình thành với các phòng, ban chuyên môn.
Đến thời gian này, Pháo binh VN có 9 tiểu đoàn và 1 trung tâm huấn luyện được phối trí như sau:
- Tiểu đoàn 1 Pháo binh (PB): đóng tại Bình Thủy.
- Tiểu đoàn 2 PB: Đông Hà.
- Tiểu đoàn 3 Pháo binh: Khánh Hòa
- Tiểu đoàn 4 PB: Pleiku
- Tiểu đoàn 5 PB: Quảng Ngãi
- Tiểu đoàn 6 PB: Sông Mao
- Tiểu đoàn 12 PB: Dĩ An.
- Tiểu đoàn 22 PB: Huế
- Tiểu đoàn 34 PB: Bến Tranh.
* Kế hoạch cải tổ và phát triển các đơn vị Pháo binh từ cuối năm 1955 đến cuối năm 1958:
Gần cuối năm 1955, do kế hoạch tổ chức quân đội Quốc gia Việt Nam (đến tháng 11/1955 cải danh thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa) với quân số 150 ngàn người, gồm có 4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến, ngành Pháo binh VNCH đang từ 9 tiểu đoàn tăng thành 11 tiểu đoàn, trong đó có một tiểu đoàn Pháo binh 155 ly được thành lập. Theo kế hoạch, tiểu đoàn 34 Pháo binh được cải thành tiểu đoàn Pháo binh 155 ly và di chuyển từ miền Nam ra Miền Trung trú đóng ở Đà Nẵng.
Việc thành lập thêm 2 tiểu đoàn Pháo binh phải đến đầu năm 1956 mới hoàn tất, các tiểu đoàn Pháo binh số 23 và 25 thành lập liên tiếp trong các ngày 1-1 và 1-2. Cùng lúc đó, để hòa nhịp với sự cải tổ rộng rãi của quân đội, các tiểu đoàn 2,5,6,3 cải danh theo thứ tự thành các tiểu đoàn 1,2,3,4 đặt thuộc thành phần cơ hữu của 4 sư đoàn Dã chiến (quân số của Sư đoàn Dã chiến là 8600 quân nhân). Mỗi tiểu đoàn Pháo binh thống thuộc các sư đoàn Dã chiến có quân số lý thuyết gồm 410 quân nhân, trong đó có 24 sĩ quan, 68 hạ sĩ quan, 318 binh sĩ. Tại mỗi trung đoàn của Sư đoàn dã chiến có 1 đại đội trọng pháo với 8 súng cối 81 ly và có tổng quân số là 100 quân nhân gồm 3 sĩ quan, 12 hạ sĩ quan và 85 quân nhân.
Tại các sư đoàn Khinh chiến (6 sư đoàn, quân số mỗi sư đoàn là 5245 quân nhân), không có tiểu đoàn Pháo binh thống thuộc như ở các sư đoàn Dã chiến mà chỉ có các đại đội trọng pháo thống thuộc các trung đoàn khinh chiến với quân số 140 người (gồm 4 sĩ quan, 15 hạ sĩ quan và 121 binh sĩ) phụ trách 12 súng cối 81 ly.
Ngoài những đơn vị trên, các tiểu đoàn số 1, 12,4, 22 cải danh theo thứ tự thành các tiểu đoàn 21, 22, 24, 26 được xem là thành phần Pháo binh tổng trừ bị của các quân khu. Riêng tiểu đoàn 34 Pháo binh 155 ly được giữ nguyên danh hiệu. Về loại vũ khí trang bị cho các tiểu đoàn Pháo binh, ngoài các đại bác 105 và 155 ly, còn có một vài pháo đội 106 ly cũng còn hoạt động một thời gian.
Cuối năm 1958, sự phối trí hoạt động các tiểu đoàn Pháo binh được sắp xếp lại dựa theo kế hoạch cải tổ của các Sư đoàn Bộ binh, từ 10 sư đoàn (4 sư đoàn dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) tái tổ chức lại thành 7 Sư đoàn Bộ binh giống nhau. Trong sự cải tổ này, Sư đoàn dã chiến số 1, số 2 trở thành Sư đoàn 1, 2 Bộ binh; Sư đoàn dã chiến số 3 trở thành Sư đoàn 5 Bộ binh, Sư đoàn dã chiến số 4 trở thành Sư đoàn dã chiến số 7. Về các sư đoàn Khinh chiến có 3 sư đoàn bị giải tán đó là các sư đoàn số 12, 13 và 16, các sư đoàn Khinh chiến 11, 14 và 15 tiếp nhận quân số các sư đoàn giải tổ để cải tổ thành các sư đoàn Bộ binh: Sư đoàn Khinh chiến số 11 thành Sư đoàn 21 Bộ binh, Sư đoàn Khinh chiến số 14 thành Sư đoàn 22 Bộ binh, Sư đoàn Khinh chiến số 15 thành Sư đoàn 23 Bộ binh.
Theo sự cải tổ này, từ đầu năm 1959, mỗi Sư đoàn Bộ binh có một tiểu đoàn Pháo binh thống thuộc, riêng các tiểu đoàn Pháo binh không nằm trong hệ thống các sư đoàn Bộ binh thì được đặt thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh các Quân khu (Năm 1962, các quân khu được tổ chức lại thành Vùng chiến thuật, đến giữa năm 1972, các Vùng chiến thuật lại đổi thành Quân khu).
Kỳ sau: Chiến tích của Pháo binh VNCH từ 1960-1972.