Theo báo Kinh tế Sài Gòn, tính từ đầu năm 2000 đến tháng nay, trong vòng gần 11 tháng, so với đồng Việt Nam thì đồng đô đã tăng giá xấp xỉ 2.7%, nếu tính bình quân mỗi tháng đồng đô tăng khoảng 0.25%, trong khi đó các doanh nghiệp chuyên xuất cảng đã giữ tiền đô không chịu bán cho các ngân hàng. Phân tích về mức tăng này, báo quốc nội cho rằng có lẽ đây là một tỷ lệ có thể chấp nhận được nếu chỉ đơn thuần dưới góc nhìn số học, bởi vì ở thị trường Mỹ mỗi ngày đồng đô tăng giảm vài ba phần trăm là chuyện hết sức bình thường. Nhìn vào con số thì như thế, nhưng thực tế diễn ra trong hơn 10 tháng qua, đặc biệt là trong vài tháng trở lại đây, đặt ra cho các chuyên gia VN nhiều điều đáng suy nghĩ.
Nêu câu hỏi là chính sách tỷ giá có tác động gì đến mức lạm phát thấp hiện nay hay không, báo quốc nội viết: Chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998) phản ánh sự đối phó tích cực trước cơn sốc mất giá quá mạnh của các đồng tiền châu Á. Tuy nhiên liệu pháp tăng đột biến tỷ giá xem ra chưa thật thích hợp với một nền kinh tế trong bước đầu chuyển đổi như ở Việt Nam. Do đó, trong gần 2 năm trở lại đây Ngân hàng Nhà nước lựa chọn con đường đi trung dung giữa hai chính sách: cố định và thả nổi tỷ giá, tức là mong muốn cho VNĐ biến động trong một biên độ “vừa phải”, tối đa là một phần ba hoặc một nửa lãi suất bình quân.
Cũng theo báo quốc nội, trong khi ở các nước tỷ giá tăng giảm rất mạnh, nên mua bán ngoại tệ chứa đựng nhiều rủi ro và nó cảnh báo cho hoạt động đầu cơ ngoại tệ nhiều tác hại khôn lường. Còn ở VN đồ thị đi lên của đồng đô ai cũng thấy rõ xu hướng đô la chỉ có một chiều tăng giá nên yếu tố đầu cơ tiền đô phát triển rất mạnh.
Ở Sài Gòn, các chuyên viên ước tính tiền gởi ngoại tệ của các doanh nghiệp gần cả tỷ đô, chưa kể có sự biến dạng từ tiền gởi doanh nghiệp qua tiền gởi tiết kiệm ngoại tệ do chênh lệch lãi suất. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp vẫn rất thiếu ngoại tệ để thanh toán, đó là loại ngoại tệ có tỷ giá do Ngân hàng nhà nước CSVN quy định”. Vì vậy buộc lòng họ phải tìm đến một “nguồn cung” theo tỷ giá thuận mua vừa bán. Nhiều ngân hàng Thương mại phải đành lòng cho khách hàng của mình được hưởng “ân huệ” không kết hối, chuyển ngoại tệ đi ngân hàng khác bán cho các “đối tác” để hưởng chênh lệch giá 100-150 đồng/đô.
Bạn,
Cũng theo báo Kinh Tế Sài Gòn, trong 10 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất cảng đạt 5.15 tỷ đô và nhập cảng 3.151 tỷ đô tức là bội thu cán cân thương mại khoảng 2 tỷ đô, vậy thì lượng ngoại tệ mà các ngân hàng mua vào giảm sút là điều mà các chuyên viên kinh tế tài chánh trong nước cho là khó chấp nhận. Nhưng mặt khác nó lại nói lên một sự thật là không ít doanh nghiệp có nhiều đô la chưa sẵn lòng trút bỏ “hầu bao” của mình ra cho các doanh nghiệp khác đang đói ngoại tệ với mức tỷ giá xem ra họ chẳng có lợi lộc gì. Một chủ doanh nghiệp chuyên về xuất nhập cảng nói với các nhà báo trong nước là công ty của ông ta phải lo thủ tiền đô để dễ dàng giao dịch với khách hàng nước ngoài, nếu không có dự trữ thì có ngày sẽ vỡ nợ vì tiền VN liên tục mất giá trên thị trường.