(Lời Chứng của Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý)
1. Đức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền trước 1975
Đức Cố TGM Điền, sinh năm 1921, nguyên là một Linh mục xuất sắc về đạo đức và trí thức của Giáo phận Sài Gòn. Làm Linh mục ít lâu, Ngài đã trở nên một trong những thành viên đầu tiên của Dòng Tiểu Đệ Phúc Âm theo tinh thần của Cha Charles de Foucault do Cha René Voillaume thành lập. Từ đó, Ngài đạp xích lô để mưu sinh và gần gũi với giới lao động. Năm 1960, Ngài được chọn làm Giám mục Cần Thơ. Năm 1964, Ngài được chọn làm Giám quản Tông Tòa Tòa TGM Huế. Ít lâu sau Ngài chính thức làm TGM Huế.
Ngài thánh thiện, hiền từ, kín đáo, tế nhị đến nỗi Ngài làm Giám mục ở Huế suốt 11 năm, trừ một căn phòng nhỏ Ngài dùng để ngủ, còn lại tất cả các phòng khác trong Tòa TGM Huế cách bày biện trang trí Ngài vẫn cố tình để y nguyên như thời Đức TGM Phêrô Ngô Đình Thục, để đợi Đức TGM Thục trở về, ngay cả cái ghế mỗi ngày Ngài quì chầu Mình Thánh Chúa cả tiếng đồng hồ, Ngài cũng để y nguyên như thời Đức TGM Thục vậy.
Đặc biệt là Ngài rất cẩn thận để Giáo Hội tách biệt khỏi chính trị thế tục, đến nỗi suốt 11 năm làm Giám mục ở Huế từ 1964 đến 1975, Ngài không hề sử dụng một chuyến máy bay nào của Không lực Việt Nam Cộng Hòa và Không lực Hoa Kỳ, Ngài cũng không hề tiếp một Nhân viên nào của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hay Sĩ quan cao cấp nào tại Tòa TGM Huế với tư cách là quan quyền phần đời cả. Đầu năm 1975, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Khu I, một Vị Tướng lúc đó rất có uy tín trong chế độ Sài Gòn cũ, muốn gặp Đức TGM Điền, Ngài đã trả lời : "Tôi là nhà tu hành, nếu Ngài muốn gặp tôi với tư cách là một con người đi tìm chân lý và bình an thì xin kính mời Ngài đến bình thường như mọi người lúc nào cũng được, nhưng nếu Ngài muốn đến thăm tôi với tư cách một Sĩ quan của Quân lực VNCH thì tôi không đủ tư cách tiếp Ngài". Nghe trả lời thế, Tướng Ngô Quang Trưởng đã không đến.
Năm 1974, Ngài đi dự Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới ở Rôma, có Tạp chí phỏng vấn Ngài về Cộng Sản VN, Ngài đã trả lời rằng : "Người Cộng sản cũng là người anh em của tôi". Sau đó, có dư luận cho rằng Ngài là TGM "đỏ".
Đầu năm 1975, Ngài tiên đoán quân CS Bắc Việt thế nào cũng đánh chiếm Huế, nên có bí mật thăm dò các Linh mục Giáo phận Huế để biết nếu quân Bắc Việt chiếm Quảng Trị - Thừa Thiên, thì liệu có bao nhiêu Linh mục tình nguyện ở lại để làm việc trong chế độ cộng sản. Cuộc thăm dò cho kết quả đáng buồn : chỉ có 6 / khoảng 120 Linh mục dám ở lại với CS mà thôi.
Ngài tức khắc vào Sài Gòn tìm 1 Nhà hưu cho các Linh mục già lão của GP Huế di tản vào và bàn giao Hội Thừa Sai VN cho Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình để vội về lại Huế cho kịp. Ngày 19.3.75 Ngài về đến Đà Nẵng bằng một trong vài chuyến Boing cuối cùng của Hàng Không VN lúc đó. Từ Đà Nẵng, xe của Tòa TGM Huế đưa Ngài về đến Huế lúc 2 giờ sáng ngày 20.03.75. Được biết chỉ còn khoảng hơn 6 Linh mục thật sự ở lại trong tỉnh Thừa Thiên, còn tỉnh Quảng Trị thì không còn Linh mục nào, Ngài vội nhờ đường dây điện thoại còn lại cuối cùng của phòng Tuyên úy Công giáo để gọi gấp vào Sài Gòn gọi tôi ra, là người đã tình nguyện theo Ngài ra sống trong vùng cộng sản.
Tôi đang dâng Thánh Lễ tại Vườn Xoài trong một tuần giảng tĩnh tâm tại đây, nhận được tin Đức TGM Huế muốn tôi ra Huế lúc 6 giờ sáng. Tôi vội về lại cộng đoàn Thừa Sai thu xếp và ra Đà Nẵng lúc 12 giờ trưa ngay ngày hôm đó. Tôi chỉ ra Huế sau Đức TGM Điền 10 giờ đồng hồ, nhưng Đèo Đá Bạc đã bị quân Bắc Việt chiếm, nên từ Đà Nẵng, tôi phải dùng nhiều phương tiện, cuối cùng sau 5 đêm và gần 6 ngày trọn, tôi về được đến Tòa TGM Huế chiều 25.03.75.
2. Đức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền sau 1975
Sáng 26.3, quân Bắc Việt treo cờ giải phóng trên Thành phố Huế. Quân đội giải phóng miền Nam VN thực chất cũng là quân Bắc Việt thôi, nhưng phải lấy cớ là quân miền Nam giải phóng để tránh tiếng cho Hà Nội khỏi xâm lược miền Nam.
Ngay ngày 01.04, ủy ban quân quản tỉnh Thừa Thiên đã mời Đức TGM Điền tham dự buổi mit-tinh để chào mừng ngày Huế giải phóng. Ngài đã phát biểu theo tinh thần tích cực, vui mừng vì chiến tranh chấm dứt tại một phần Đất Nước. Sau đó Ngài đều cổ vũ mọi người vui sống theo tinh thần lạc quan đó. Ngài phổ biến tập sách "Tôi Vui Sống" để hướng dẫn Dân Chúa sống Phúc Âm trong hoàn cảnh mới một cách tích cực.
Dịp 02.09.75, Ngài xin đi Hà Nội để chào mừng Đức Hồng Y Tiên Khởi của Giáo Hội Công giáo Việt Nam : Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê, đồng thời để 2 Vị Lãnh đạo gặp nhau lần đầu tiên. Trên đường đi, Ngài thăm 2 Đức Giám mục Gp Vinh và Thanh Hóa. Tại Hà Nội, Ngài gặp Đức Giám mục Bắc Ninh hiện nay là Đức Hồng Y Giuse Maria Phạm Đình Tụng. Ngài lưu lại Tòa Tổng Giám mục gần 2 tuần, gặp Đức TGM Phó Hà Nội, sau nầy là Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, gặp Cha Fx. Nguyễn Văn Sang, hiện nay là Giám mục Thái Bình, Tổng Thư ký HĐGMVN, gặp Cha Tổng Đại diện Trọng, hiện nay là GM Phụ tá Hà Nội, gặp cha Nguyễn Tùng Cương, về sau làm Giám mục Hải Phòng, gặp Cha Tông, hiện nay là Tổng Đại Diện TGP Hà Nội, và nhiều linh mục quan trọng khác. Chuyến đi miền Bắc nầy giúp Ngài thấy rất rõ CSVN đối xử thế nào với các Tôn giáo tại VN và nhất là Giáo hội Công giáo VN. Về lại Huế, CSVN yêu cầu Ngài viết và nói lại chuyến đi ấy, Ngài nhất mực từ chối. CSVN cũng mời tôi, Linh mục Thư ký cùng đi với Ngài làm như thế, nhưng tôi cũng từ chối.
CSVN đàn áp các tôn giáo càng ngày càng rõ rệt, nhất là việc phân biệt đối xử các Tín hữu ghi rõ trong lý lịch mình là "công giáo". Biết bao nhiêu sinh viên công giáo không thể tốt nghiệp đại học, bao nhiêu học sinh công giáo không thể thi vào đại học, bao nhiêu nhân viên bị mất việc làm chỉ vì mình là công giáo. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển Linh mục càng ngày càng khó khăn. Giữa năm 1975, Ngài phong chức được 2 linh mục, đầu năm 1976, được 4 Linh mục và sau đó đành chịu. Mãi 18 năm sau, năm 1994, Đức TGM Têphanô Nguyễn Như Thể mới phong chức được thêm 5 linh mục khác.
Từ một người rất sợ cộng sản, nhưng trong Đức Tin và Đức Ái, Đức TGM Điền cố gắng sống cởi mở, hài hòa, tích cực. Nhưng dần dần Ngài nhận thức rõ, CSVN thực sự muốn tiêu diệt các Tôn giáo và nhất là công giáo. Năm 1977, nhân 2 cuộc họp do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (UBMTTQVN) tổ chức, Đức TGM Điền đã phát biểu 2 bài đòi Tự do Tôn giáo, trong đó Ngài xác nhận, người công giáo bị đối xử là "công dân hạng hai". Tôi đánh máy ra và phổ biến cho các Linh mục Gp Huế. Ít lâu sau, 2 bài nầy được in ra khá nhiều ở Sài Gòn và báo chí nước ngoài đăng lại. Cuối tháng 08.77, Linh mục Hồ Văn Quý, Giám đốc Đại chủng viện Huế và tôi bị bắt, các tòa án nhân dân của các tổ chức quần chúng kết án chúng tôi 20 năm, nhưng năm 1977, Việt Nam vừa nộp đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, nên chiều 24.12.77, hai chúng tôi được đột ngột thả ra. CSVN buộc Đức TGM Huế phải bổ nhiệm 2 anh em chúng tôi đi làm việc, không cho ở Nhà Chung, nhưng không được bổ nhiệm ở thành phố, giáo xứ lớn, ở vùng núi, ở vùng biển ; chỉ được ở giáo xứ nhỏ vùng quê mà thôi. Đầu tháng 7. 1978, Linh mục Augustinô Hồ Văn Quí đi Bố Liêu, Quảng Trị; còn tôi đi Đốc Sơ, gần Tp Huế.
Trước Giáng Sinh 1979, CSVN dùng bạo lực cưỡng chiếm Tiểu chủng viện Hoan Thiện, đuổi 3 Linh mục đang dạy trong đó phải đi làm việc khác và hơn 80 chủng sinh phải về sống với gia đình. Giáng Sinh năm đó, Đức TGM Điền ra lệnh cho cả Giáo phận Huế phải để tang cho đứa con yêu 149 tuổi nầy đã bị giết. Ngài nói :" Chủng viện là con mắt của Giám mục, nay tôi đã bị móc mắt rồi". Cả Giáo phận quá đau lòng về việc Tiểu chủng viện bị cưỡng chiếm.
Lúc bấy giờ, CSVN không muốn giáo hữu đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, ngăn chận xe khách dọc đường, đuổi tất cả những ai muốn đi La Vang xuống. Nên việc hành hương kính Đức Mẹ La Vang rất khó khăn. Cha Tôma Trần Văn Cầu, Quản xứ Trí Bưu phụ trách Trung Tâm La Vang ; về sau Cha Emmanuel Nguyễn Vinh Gioang, Quản xứ Diên Sanh phụ trách La Vang, và tất cả các Linh mục vùng Quảng Trị đã phải kiên trì đấu tranh bằng nhiều cách để có thể đưa giáo hữu đến La Vang. Dịp 15-08-1981, tôi phải hướng dẫn khách hành hương La Vang bị chận dọc đường, đứng tại chỗ mà hướng về La Vang mà nguyện kinh 4 lần 4 nơi khác nhau, mới có thể khai thông tuyến đường. Năm đó, lần đầu tiên sau 75, số người hành hương La Vang lên đến 10 ngàn người. Sau đó, CSVN kết án 5 chủng sinh từ 2 đến 5 năm tù và đuổi 5 chủng sinh khác về nhà.
Từ 1976, Đức TGM Huế không truyền chức linh mục được thêm cho một chủng sinh nào. Đại chủng viện Huế coi như bị đóng cửa với 1 Linh mục giám đốc duy nhất. Các Dòng tu liên tiếp gặp quá nhiều khó khăn. Phải tu chui, khấn chui, một cách vô lý và rất ấm ức. Các giáo xứ kinh tế mới và xa xôi quá khó khăn mới có một Thánh Lễ dịp Giáng Sinh, Phục Sinh,...
Năm 1980, cùng với Đức TGM Phó Têphanô Nguyễn Như Thể, Ngài đi dự buổi họp đầu tiên của HĐGMVN tại Hà Nội. Khi về lại, cả 2 Vị TGM đều rất buồn về Bức Thư Chung không được vừa ý, nhưng vì muốn bày tỏ tính hiệp nhất của Giáo hội mà đành lòng ký chung. Sau đó, Ngài được đi Rôma. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi Ngài là "TGM anh dũng", chia sẻ với Ngài công thức lừng danh để sống trong chế độ cộng sản :"cộng tác trong tình trạng luôn luôn đề kháng" (collaborer en résistant).
Năm 1983, CSVN kết án tôi 10 năm tù ở và 4 năm tù quản chế rồi đưa tôi ra Thanh Hóa. Đức TGM Điền càng đau buồn.
Nhiều lần, Ngài viết thư cho Linh mục Nguyễn Hữu Vịnh, Chủ tịch Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo chứng minh rằng Giáo Hội Công giáo VN đang bị bách hại thực sự ; và GHCGVN đã có Hội Đồng Giám mục VN là cơ quan chính thức để điều hành sinh hoạt Giáo hội, liên lạc với Chính quyền Cộng Sản, không cần có thêm một Ủy ban nào hết. Nếu UBĐKCG hoạt động thì UB ấy cao hơn HĐGMVN, tạo nên sự bất hợp lý trong Giáo hội. (Tại nhiều giáo phận, việc thuyên chuyển, bổ nhiệm linh mục, việc du học và du lịch nước ngoài do UBĐKCG nầy lèo lái).
Ngài phải tìm cách chuyển các tài liệu ấy ra nước ngoài. Vì thế, Ngài đã bị CSVN gây ra bao nhiêu đau khổ.
3. Đức Cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền đã Tử Đạo thế nào "
Năm 1975, Đức TGM Điền không hề bị một bệnh nào, chỉ thỉnh thoảng bị cảm lạnh. Nhưng chịu quá nhiều phiền toái do CSVN gây ra như bị ép buộc ký giấy trao cho CSVN sử dụng hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận, bị triệu tập làm việc suốt hơn 100 ngày, suốt ngày bị nghe những lời thóa mạ, bị buộc viết các lời khai, bị buộc ăn năn sám hối vì đã đấu tranh các quyền lợi chính đáng của Giáo Hội, bị buộc tố cáo chê bai các linh mục, tu sĩ con cái của mình, không thể truyền chức linh mục cho các chủng sinh đã học xong từ lâu, không thể bổ nhiệm các linh mục, có thời gian không thể đi cử hành Nhiệm tích Thêm sức trong giáo phận, nên từ 1981, Ngài bị bệnh nhồi máu cơ tim, thỉnh thoảng tim ngừng đập vài giây, cao huyết áp, xơ cứng động mạch, suy thận, cột sống và đái đường, mỗi thứ một ít, nhưng chưa có bệnh nào nặng đến nỗi gây ra cái chết đột ngột.