
WESTMINSTER (VB) -- Theo Cáo Bạch của GHPGVNTNHK ngày 9 tháng 3 và Khấp Báo của gia đình ngày 10 tháng 3, Thi Sĩ, Giáo Sư Phạm Công Thiện, Pháp Danh Nguyên Tánh, đã mãn phần vào lúc 6 giờ 30 phút chiều ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại tư gia, Thành Phố Houston, Texas, hưởng thọ 71 tuổi.
Theo Wikipedia bản tiếng Việt, và một số tài liệu từ các bài viết về ông trên sách báo và trang mạng, Giáo Sư Phạm Công Thiện sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho. Ông là một thiên tài về ngôn ngữ học. Ông thông thạo nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, Đức, Phạn, Latinh, Tây Tạng, v.v... Năm 16 tuổi ông đã xuất bản cuốn Tự Điển Anh Ngữ Tinh Âm, và dạy Anh ngữ tại nhiều trường ở Sài Gòn.
Ông sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa Giáo rất thuần thành. Nhưng, sau khi theo đạo Phật ông đã chuyển hóa nhiều thân nhân trong gia đình quy y theo Phật. Ông có người em trai cũng quy y với Hòa Thượng Thích Trí Thủ với Pháp Danh là Thích Nguyên Văn, hiện sống tại Úc. Các người con của ông đều quy kính và tin Tam Bảo.
Năm 1963, sau “một cuộc khủng hoảng tinh thần,” theo ông kể, ông đã ra Phật Học Viện Hải Đức tại Nha Trang xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Giám Viện PHV Hải Đức lúc bấy giờ. Ông được Hòa Thượng Thích Trí Thủ ban cho Pháp Danh là Nguyên Tánh. Cũng trong thời gian này ông chuyên tâm nghiên cứu về Phật Học và viết cuốn sách về Phật đầu tiên là “Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma,” năm 22 tuổi.
Năm 1966, Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn, mời ông về dạy và giúp phát triển hệ thống giáo dục cao cấp đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam. Về Vạn Hạnh, ông đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc Soạn Thảo Chương Trình Giảng Dạy cho tất cả các Phân Khoa của Vạn Hạnh, từ năm 1966 tới năm 1970. Và cũng thời gian này ông đảm nhận chức vụ Khoa Trưởng Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn của Vạn Hạnh. Ông cũng là một trong những vị sáng lập và chủ trương Tạp Chí Tư Tưởng của Đại Học Vạn Hạnh, tờ báo đã trở thành biểu tượng tri thức sáng chói một thời của Miền Nam trước năm 1975.
Năm 1970, ông rời Việt Nam và sống tại các nước Israel, Đức rồi Pháp. Thời gian này ông tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Sorbonne ở Pháp. Sau đó làm giảng sư thực thụ về Triết Học Tây Phượng tại Đại Học Toulouse ở Pháp. Và cũng trong thời gian này ông lập gia đình.
Năm 1983, Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Trú Trì Chùa Việt Nam, Los Angeles, bảo lãnh ông sang Mỹ. Tại đây ông giảng dạy Phật Học tại Trường Đại Học Đông Phương và nhiều Học Viện Phật Giáo khác tại California, Hoa Kỳ.
Năm 1996, ông được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, thỉnh cử vào chức vụ Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa.
Từ năm 2005 đến nay, ông dời về sống tại Thành Phố Houston, Texas. Thỉnh thoảng ông sang Nam California để nhập thất tại Chùa Viên Thông, Thành Phố Bellflower.
Những năm sau này ông chuyên viết về Phật Học.
Ông tham gia vào sinh hoạt văn học rất sớm. Trước khi rời Việt Nam sang Tây, ông đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Bách Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, v.v...
Tại hải ngoại ông đã cộng tác và có bài đăng trên nhiều báo chí như Người Việt, Việt Báo, Thế Kỷ 21, v.v...
Theo lời kể của nhà thơ Lê Giang Trần, người ở kề cận khi ông qua đời, rằng ông đã biết trước giờ ra đi, nên đã dặn dò mọi việc, rồi sau đó vào thiền định, trì chú và xả bỏ báo thân vào lúc 6 giờ 30 phút chiều ngày 8 tháng 3 năm 2011.
Những tác phẩm của ông gồm có:
* Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền tông (1964),
* Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965),
* Ngày sinh của rắn (1967),
* Trời tháng Tư (1966),
* Im lặng hố thẳm (1967),
* Hố thẳm của tư tưởng (1967),
* Mặt Trời không bao giờ có thực (1967),
* Bay đi những cơn Mưa Phùn (1970),
* Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988),
* Sự chuyển động toàn diện của tâm thức trong tư tưởng Phật Giáo (1994),
* Triết lý Việt Nam về sự vượt biên (1995),
* Làm thế nào để trở thành một bậc Bồ Tát,
* Sáng rực khắp bốn phương Trời (1998),
* Tinh tuý trong sáng của đạo lý Phật Giáo (1998),
* Trên tất cả đỉnh cao là Im Lặng,
* Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử,
* Khai ngôn cho một câu hỏi dễ hiểu: Triết học là gì",
* Đối mặt với 1000 năm cô đơn của Nietzche.
Ông cũng đã dịch một số tác phẩm như:
* Jiddu Krishnamurti, Tự do đầu tiên và cuối cùng (1968),
* Martin Heidegger, Về thể tính của chân lý (1968),
* Martin Heidegger, Triết lý là gì" (1969),
* Friedrich Nietzsche, Tôi là ai" Đây là người mà chúng ta mong đợi! (1969),
* Nikos Kazantzakis, Rèn luyện tâm thuật huyền linh (1991), v.v...
Theo Khấp Báo của gia đình, Tang Lễ của Giáo Sư Phạm Công Thiện diễn ra như sau:
Tang Lễ sẽ được thực hiện tại nhà quàn Thiện Tâm
Garden Oaks Funeral Home
13430 Bellaire Blvd,
Houston, Texas 77083 (713) 679 – 0111
- Lễ Nhập Liệm lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 12/3/2011
- Lễ Hoả táng lúc 1:30 chiều Chủ Nhật ngày 13/3/2011.
Thay mặt Tang quyến thành kính khấp báo
Phạm Phong Sương
Điện thoại liên lạc: (281) 292 - 7489 hay (714) 757 - 6434.
Tại Nam Cali, một buổi lễ cầu siêu cho Giáo Sư Phạm Công Thiện sẽ được tổ chức vào lúc 11 sáng Chủ Nhật, ngày 13 tháng 3 năm 2011, tại Chùa Viên Thông, 15933 Clark Avenue, Bellflower, CA 90706. Tel. (562) 867-8929.